Xem thêm : Sản phẩm dưỡng tóc Moroccanoil có mấy loại?
Thứ hai – 28/09/2020 14:34
Tôn Trung Sơn (Tôn Văn, Tôn Dật Tiên, 1866 – 1925), là nhà cách mạng dân chủ vĩ đại của Trung Quốc. Ông sớm tham gia vào hoạt động cứu nước. Năm 1894, ông thành lập Hưng Trung Hội, là Hội cách mạng đầu tiên của giai cấp tư sản Trung Quốc để chuẩn bị các cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (1895), Huệ Châu (1898) nhưng không thành công. Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức trong nước lập thành Trung Quốc Đồng minh hội do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của Hội, ông đã công bố chủ nghĩa Tam Dân: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”[1]. Cùng với nền tảng lý luận của mình, ông đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tân Hợi (1911). Cuộc cách mạng đã chấm dứt chế độ chuyên chế phong kiến hơn 2000 năm, lập nên nước Trung Hoa dân quốc và có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á. Chủ nghĩa Tam Dân có những tác động tích cực đến phong trào cách mạng Việt Nam ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thời điểm đang khủng hoảng về đường lối cứu nước, một số sỹ phu yêu nước đã coi đây là nền tảng lý luận quan trọng cho việc hình thành tư tưởng cứu nước. Trong đó, Hồ Chí Minh là người chịu ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tư tưởng của mình. Sinh thời, Nguyễn Tất Thành cũng đã từng được nghe những từ “dân sinh”, “dân quyền”, “dân quốc” do các nhà Nho yêu nước nói đến trong khi đàm luận với cụ Nguyễn Sinh Sắc… với lòng tôn kính, khâm phục và trân trọng. Trong Tạp chí Thư tín quốc tế số 57 (năm 1924), Nguyễn Ái Quốc đã viết: Tôn Dật Tiên – người cha của cách mạng Trung Quốc, người đã một đời đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thế giới để giải phóng quần chúng nhân dân. Nhưng phải sau khi về tới Quảng Châu (1924), Nguyễn Ái Quốc mới có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn qua sách vở và học trò của Tôn Văn, nghiên cứu và đánh giá rất cao chủ nghĩa ấy và thấy có những tư tưởng tiến bộ, tích cực có nhiều điểm thích hợp với điều kiện nước ta. Cách lãnh đạo cách mạng của Tôn Trung Sơn cũng được Người quan tâm và học tập, đặc biệt là vận dụng đạo đức Nho giáo để tuyên truyền và giáo dục tinh thần cách mạng cho quần chúng. Coi những người lãnh đạo, nhân viên phải trung với nước, là đầy tớ của quần chúng nhân dân. Chính tư tưởng trên đã được Hồ Chí Minh vận dụng thành những lời nhắc nhở, giáo dục cho cán bộ, đảng viên chúng ta: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, cán bộ phải “trung với nước, hiếu với dân”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “phải khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” … Cũng như Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã lấy “dân tộc độc lập” làm lý tưởng cho hành động của Người. Với lý tưởng ấy, Người đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, bôn ba khắp bốn phương trời để tìm đường cho dân tộc theo đi. Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước khi trở về Tổ quốc, Người đã viết thư chỉ rõ: “trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”[2], Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng dành cho được độc lập. Ý chí ấy được khẳng định hơn nữa trong Bản Tuyên ngôn độc lập: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy. Đó là những lời bất hủ được Người tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và bạn bè thế giới về quyền tự do độc lập của mọi người dân Việt Nam đáng được hưởng. Sau này, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang dậy núi sông: Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[3]. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, “Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được công nhận là Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX. Con đường sau giành độc lập dân tộc đã được Hồ Chí Minh định hướng rõ là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có như thế thì dân quyền mới tự do, dân sinh mới hạnh phúc. Nếu như Tôn Trung Sơn với nguyên tắc “dân quyền tự do” thì Hồ Chí Minh của chúng ta lại phấn đấu xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lợi hạnh phúc đều thuộc về nhân dân. Người quan niệm nhà nước ấy mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lâp dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”[4]. Do đó, giành độc lập rồi phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”[5], là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng tự do. Sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc. Qua đó, cho ta thấy tư tưởng của Bác đã toát lên ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Trung Sơn, về sau ta còn thấy “tứ dân” của Bác đó là: dân tộc, dân quyền, dân sinh, dân trí, nghĩa là phát triển từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Hơn nữa, chính sách của Tôn Trung Sơn: thân Nga, liên Cộng, phù trợ Công nông cũng phù hợp với đường lối cách mạng Việt Nam và chính sách ấy đã được Hồ Chí Minh kết hợp một cách thật tài tình để giải phóng dân tộc Việt Nam, tạo ra một Việt Nam trong nhân loại, một tình hữu ái vô sản toàn thế giới như Ăngghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Tuy nhiên, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn cơ bản vẫn là tư tưởng dân chủ tư sản, nằm trong hệ tư tưởng tư sản nên có nhiều hạn chế. Hồ Chí Minh đã nhận thấy những hạn chế ấy, cho nên khi cụ Phan Bội Châu định chuyển Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng, theo cương lĩnh của Tôn Trung Sơn thì Nguyễn Ái Quốc đã có những lời khuyên chân tình là không thể dừng lại ở những chủ trương của Quốc dân đảng. Hơn nữa, khi vận dụng “chính sách” mà Người cho là thích hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam như khẩu hiệu “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” rút ra từ chủ nghĩa Tam Dân và tư tưởng “Tự do – bình đẳng – bác ái” của cách mạng tư sản Pháp thành tiêu ngữ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, thì Người đã phát triển khái niệm “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” lên một tầm cao mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để của cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. CN. Hứa Thị Thoa Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
Bạn đang xem: Suy nghĩ về sự ảnh hưởng chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn đối với Hồ Chí Minh
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
This post was last modified on 10/01/2024 13:14
Con số may mắn hôm nay 23/11/2024 theo năm sinh: Nhặt TIỀN từ con số…
Tử vi thứ bảy ngày 23/11/2024 của 12 con giáp: Tuổi Thìn chán nản, tuổi…
Vận may của 4 con giáp đang ngày càng xuống dốc. Cuối tuần này (23-24/11),…
Con số cuối cùng trong ngày sinh dự đoán con người sẽ GIÀU CÓ, sống…
Cuối tuần này (23-24/11), 4 con giáp sẽ gặp nhiều may mắn và thành công…
Tử vi hôm nay – Top 3 con giáp thịnh vượng nhất ngày 22/11/2024