Categories: Tổng hợp

8 bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận – Văn mẫu lớp 9

Published by

1. Tìm hiểu chung về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

Tác giả Huy Cận (1919 – 2005)

Huy Cận (1919 – 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông.

Trong thời gian học Cao đẳng, ông sống ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu, ông là bạn tâm giao của Xuân Diệu.

Sự nghiệp sáng tác

+ Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng”.

+ Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam.

+ Huy Cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996)

Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ngợi ca công việc xây dựng quê hương, là sự tự hào về mảnh đất chôn rau cắt rốn. Nhan đề thơ còn phản ánh không khí sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong công cuộc xây dựng cuộc sống xã hội chủ nghĩa.

Hoàn cảnh sáng tác

Giữa năm 1958, Huy Cận có một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế ấy, hồn thơ Huy Cận thực sự nảy nở dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước. Bài thơ được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.

Bố cục: 4 phần

Phần 1 (2 khổ đầu): Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi

Phần 2 (4 khổ tiếp theo): Cảnh đoàn thuyền đánh trên biển

Phần 3 (khổ cuối): Hình ảnh đoàn thuyền trở về.

Chủ đề

Có hai nguồn cảm hứng bao trùm:

+ Cảm hứng ngợi ca thiên nhiên vũ trụ.

+ Cảm hứng ngợi ca tinh thần lao động hăng say và tư thế làm chủ của người lao động trong cuộc sống mới.

Giá trị nội dung

Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên.

Giá trị nghệ thuật

Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo, có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.

2. Dàn ý chung phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

A. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình ông để lại nhiều tác phẩm thơ văn có giá trị, trong đó đặc sắc nhất là bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là khúc tráng ca, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên biển cả và con người lao động trong thời đại mới.

B. Thân bài

* Khái quát hoàn cảnh sáng tác, những nét chính về nghệ thuật, nội dung, chủ đề tác phẩm.

– Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”(1958).Bằng đôi mắt quan sát sắc sảo,trí tưởng tượng phong phú, một trái tim nhạy cảm, một tài năng nghệ thuật điêu luyện nhà thơ Huy Cận đã vẽ lên một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người trên biển qua đó bộc lộ niềm tin, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước, trước cuộc sống.

* Luận điểm 1: Hai khổ thơ đầu khắc họa cảnh Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong cảnh hoàng hôn thật tráng lệ và huy hoàng.

a. Khổ 1: Hai câu thơ đầu tả cảnh thiên nhiên trên biển

Hai câu thơ đầu bằng cảm hứng và bút pháp lãng mạn Huy Cận đã khắc họa thành công cảnh hoàng hôn trên biển với hình ảnh thật độc đáo:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

Nếu chỉ căn cứ vào thực tế ta sẽ cảm thấy như vô lí bởi biển ở phía đông nước ta vốn không nhìn thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Như thê nhà thơ Huy Cận đặt điểm nhìn nghệ thuật trên con thuyền ra khơi từ biển nhìn về phía tây nhà thơ thấy mặt trời lặn xuống biển. Mặt trời xuống biển vào lúc hoàng hôn sắp tắt, như một khói lửa lớn đang chìm dần xuống biển xanh. Màn đêm dần buông xuống và vây kín bầu trời. Hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ còn những gợn sóng là cài then cửa. Tác giả đã so sánh mặt trời cuối ngày “như hòn lửa” khiến cho cảnh hoàng hôn trở nên tráng lệ, rực rỡ chứ không ảm đạm, hiu hắt như nhiều nhà thơ khác miêu tả. Điểm thêm vào tiếng sóng dịu êm là màn đêm buông xuống qua hình ảnh nhân hóa “Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính biện pháp tu từ nhân hóa và liên tưởng đã làm cho cảnh biển đêm trở nên gần gũi với con người. Con người đi trong biển đêm mà như đang đi chính trong ngôi nhà của mình. Điều đó cũng cho thấy con người ra khơi trong tư thế yên tâm, an toàn, tự chủ. Như vậy chỉ bằng hai câu thơ Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm, khiến cảnh biển đẹp vừa hùng vĩ tráng lệ nhưng lại rất gần gũi với con người khác hẳn với cảnh hoàng hôn trong thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường buồn và hiu hắt.

* Hai Câu thơ sau:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Chuyển ý: Chính lúc thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, thì cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của Đoàn thuyền đánh cá: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”

Câu thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng náo nức của người lao động. Đoàn thuyền đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh biển lúc hoàng hôn vô cùng rực rỡ, tráng lệ cảnh vừa rộng lớn của gần gũi với con người sau một liên tưởng thú vị:

Sự mâu thuẫn làm nổi bật tư thế của người lao động trước biển cả. Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết đoán dứt khoát. Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà cả một đoàn thuyền, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ “lại” trong ý thơ “lại ra khơi” là một sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã ổn định đi vào nề nếp. Ra khơi là một công việc diễn ra thường xuyên đều đặn một nhịp sống quen thuộc.

Cùng ra khơi trên những con thuyền là những người lao động. Họ mang theo câu hát khúc hát lên đường vang vọng: ” Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn, niềm say sưa, hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với những công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho tổ quốc. Câu hát của người lao động như có một sức mạnh vật chất cùng với ngọn gió làm căng buồm chuẩn bị cho con thuyền lướt sóng ra khơi. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe lạ mà từ sự gắn kết ba sự vật, hiện tượng: Câu hát, căng buồm, gió khơi là ba chi tiết nghệ thuật mang tính tượng trưng diễn tả tinh thần hứng khởi, hăng say và khí thế ra khơi của người dân miền biển. Như vậy bức tranh cảnh trời đêm không hề yên tĩnh mà lại ngân vang câu hát của người lao động.

b. Khổ 2: Là những câu hát ngợi ca sự giàu có, trù phú, ca ngợi nét đẹp tâm hồn của người ngư dân

Khổ thơ tiếp theo nói rõ về những câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân làng chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn, tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển khơi:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”

Tiếng hát ấy đã làm nổi bật hình ảnh các loài cá trên biển: Cá bạc biển Đông, cá thu biển đông “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”. Với biện pháp nghệ thuật nhân hóa và nghệ thuật so sánh: “Cá thu như đoàn thoi” , tác giả đã cho thấy vẻ đẹp lung linh rất ý nghĩa. Giọng thơ ngọt ngào vang xa, cùng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ rất sáng tạo( cá bạc, đoàn thoi, dệt biển luồng sáng, dệt lưới ), nghệ thuật đối lập giữa biển đêm và luồng sáng của cá đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp của thơ ca viết về lao động.

Câu hát còn là để gói cá vào lưới “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”. Nghệ thuật ẩn dụ , qua cách sử dụng từ “dệt „ với mong muốn cá đến thật nhiều. Câu hát cho thấy người lao động làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình, và niềm tin đánh bắt cá thắng lợi. Câu hát thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa con người lao động với biển cả. Họ yêu biển gắn bó với biển.

* Đánh giá về nội dung và nghệ thuật hai khổ thơ đầu

Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao động và niềm hi vọng của người dân chài. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

* Luận điểm 2: Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp và con người yêu lao động, yêu thiên nhiên thì 4 câu thơ tiếp lại miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá về đêm bao la hùng vĩ

c. Khổ 3: Là hình ảnh biển đêm rộng lớn

Khổ thơ đã làm hiện lên hình ảnh con thuyền kì Vĩ, khổng lồ hòa nhập với kích thước rộng lớn thiên nhiên vũ trụ. Con thuyền có gió làm bánh lái, trăng làm buồm lướt đi phơi phới giữa mênh mang trời nước:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Khổ thơ đã cho thấy vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ của đoàn thuyền đánh cá trên biển. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp phóng đại, cùng với những liên tưởng mạnh bạo, bất ngờ để sáng tạo ra hình ảnh người lao động. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ , khổng lồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn, tầm cỡ lớn lao của thiên nhiên vũ trụ. Thiên nhiên, vũ trụ, gió, trăng như đang góp sức với con người lao động đi khám phá và chinh phục biển cả. Hình ảnh con người lao động được đặt trong nghệ thuật hài hòa của thiên nhiên (Lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng) để diễn tả cảnh con thuyền tung hoành giữa biển trời mênh mông và đang làm chủ biển khơi. Từ ” lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với tốc độ phi thường. Thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động khám phá. Chỉ hai câu thơ đó thôi đã cho ta thấy sức tưởng tượng phong phú, bút pháp lãng mạn tài hoa sáng tạo của Huy Cận trong bức tranh đó nổi bật với tư thế hiên ngang của người lao động:

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

– Hai câu thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc cảnh đánh cá như một trận đấu chiến, buông lưới như “dàn đan thế trận”. Những người dân làng chài trở lên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế làm chủ, mà còn nổi bật giữa thiên nhiên vũ trụ. Họ chủ động chinh phục biển cả. “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” đến ngư trưởng người ngư dân khẩn trương lao vào cuộc: “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Công việc đánh cá là một trận chiến, mỗi ngư dân là một chiến sĩ. Con thuyền, mái chèo, lưới và ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Công cuộc lao động cũng chính là công cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Công việc đánh cá được “Dàn đan” như một thế trận hào hùng gợi sự khéo léo như nghệ nhân của người dân làng chài và tâm hồn phóng khoáng chinh phục biển cả. Tư thế và khí thế của người dân thật là mạnh mẽ đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển trời.

d. Khổ 4: là bức tranh biển đêm giàu có nên thơ

Đoạn thơ còn cho thấy cảnh biển đêm lung linh huyền ảo với màu sắc của các loài cá. Nhưng câu thơ tả đoàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với những loài cá quý, cá ngon như tục ngữ đã nói: “Chim thu, nhụ đé”. Vận dụng sáng tạo cách nói của dân gian, nhà thơ viết “Cá thu biển Đông như đoàn thoi”. Ở đây lại miêu tả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”

– Với một loạt hình ảnh liệt kê: Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé, cá song đã góp phần diễn tả sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Vẻ đẹp của các loài cá hòa quyện cùng với vẻ đẹp của trăng trên biển tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và giàu chất lãng mạn. Nhà thơ sử dụng một loạt các tính từ chỉ màu sắc “lấp lánh, đen hồng, vàng chóe” để làm nổi bật lên vẻ đẹp của các loài cá những con cá song giống như những ngọn đuốc đen hồng lao đi trong luồng nước dưới ánh sáng lấp lánh là một hình ảnh rất độc đáo sáng tạo, là một nét vẽ tài hoa đẹp hơn nữa là hình ảnh “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, ánh trăng in xuống mặt nước, cái đuôi như quẫyanh trăng tan ra vàng chóe.

– Hơn thế nữa cảnh biển đêm còn lung linh với hình ảnh:

“Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”.

Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở sao lùa” là hình ảnh sống động có hồn thể hiện sự sáng tạo bất ngờ của tác giả. Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống

Nhìn bầy cá bơi lượn nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ kỳ ảo lung linh như đưa người đọc vào cõi mộng. Phải có tình yêu biển sâu nặng tác giả mới viết được một vần thơ tuyệt bút như vậy.

Hình ảnh những con cá đẹp hơn, rực rỡ hơn dưới ánh sáng bình minh. Nhà thơ đã sử dụng từ “bạc”, ” vàng” gợi lên màu sắc sáng đẹp vừa gọi được sự giàu có quý giá của biển khơi.

c. Khổ 5: Tiếng hát hòa với gió để gọi cá và lòng biết ơn của những người ngư dân.

* Chuyển ý: Trước sự giàu có và phong phú của biển cả, đã mở ra tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao tiếng hát:

Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Tiếng hát căng tràn trên mặt biển gọi cá vào, gợi sự thân thiết niềm vui, sự phấn khởi trong lao động. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Câu hát vang lên giữa biển khơi như khúc trường ca rộn rã, biển cả bao la thực sự là ngôi nhà thứ hai của ngư dân. Là một niềm hạnh phúc, niềm vui, là tâm trạng của người dân miền Bắc đi lên xây dựng CNXH. Những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào: “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc đánh cá trên biển. Âm nhạc và ánh trăng đã tạo nên những thăng hoa trong tâm hồn người lao động. Những người ngư dân còn có một tình cảm thật đặc biệt với thiên nhiên và với biển cả

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Với biện pháp nghệ thuật so sánh “Biển như lòng mẹ”, tác giả đã cụ thể hóa tình cảm tha thiết con người với thiên nhiên gợi hình ảnh biển cả giàu có, biển rộng lớn bao la gợi cảm giác ấm áp thân thiết và tình yêu bằng tâm hồn tình cảm của người lao động với biển cả. Thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của con người với thiên nhiên, đồng thời nói lên lòng tự hào của người dân làng chài với biển quê hương. Qua hình ảnh so sánh đó ta thấy được cái nhìn lãng mạn của nhà thơ Huy Cận.

g. Khổ 6: Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say với cảnh kéo lưới.

Công việc đánh cá của người dân nhịp nhàng với điệu vận hành của thiên nhiên vũ trụ . Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hứng khởi, hăng say trên bầu trời sao đã thưa và mờ cũng là lúc kéo lưới về kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Cả bài thơ chỉ có một chi tiết tả thực cảnh kéo lưới cũng được viết theo lối khoa trương nên vẫn nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn:

” Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chum cá nặng”

+ “Sao mờ” là lúc trời gần sáng, mặt trời đang lên. Đó là dấu hiệu báo một ngày mới bắt đầu. Con người đang giành giật với thời gian, chạy đua với thời gian để làm việc và cống hiến. TG trôi càng nhanh, con người lao động càng hăng say. Họ đang khẩn trương để kéo lưới kịp trời sáng. Một cuộc chạy đua âm thầm đang diễn ra giữa con người và thiên nhiên. Con người thì nhỏ bé, thiên nhiên thì lớn lao vậy mà con người dám chạy đua cùng thiên nhiên.

+ 2 câu thơ đã tạo nên bức tượng đài sừng sững của người lao động giữa vùng biển rộng. Hai chữ “xoăn tay” giàu chất tạo hình khiến cho người đọc hình dung tư thế của những người lao động. Đó là tư thế chắc khỏe, cường tráng, tư thế của những người đã khẳng định được vị thế của mình trên biển khơi, vị thế của người làm chủ, người chiến thắng. Bóng dáng họ sừng sững giữa biển khơi với bắp tay nổi cuộn, dưới bàn tay ấy là tấm lưới triều nặng.

+ Hình ảnh “chùm cá nặng” gợi liên tưởng thú vị: cá rất nhiều, che cả mắt lưới. Đó chính là thành quả lao động mà người ngư dân thu được sau một đêm vất vả.

Câu thơ giúp cho ta hình dung được những cánh tay rắn chắc “kéo lưới xoăn tay” là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất nhanh khỏe và đẹp. Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi khỏe mạnh với những bắp tay cuồn cuộn của người dân chài kéo một mẻ lưới đầy cá nặng, “chùm cá nặng” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá. Vẫn là phép liên tưởng và tưởng tượng bay bổng nhà thơ giúp người đọc nhận ra được vẻ đẹp dũng mãnh với những chiến tích lớn lao mà những người anh hùng lao động đạt được, họ hoàn toàn xứng đáng khi có những thành quả ấy. Hình ảnh ngư dân trên biển đêm hiên ra với tư thế làm chủ bình tĩnh, tự tin và họ lao động bằng cả niềm vui, sự lạc quan họ xứng đáng là những anh hùng lao động trên mặt trận.

Chuyến ra khơi thắng lợi và sao mờ cũng là lúc công việc đánh cá trên biển ngư dân:

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

“Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Câu thơ với những hành động diễn ra liên tiếp, khẩn trương tạo sự nhịp nhàng trong lao động của con người với sự vận hành của thiên nhiên vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh.

Lời thơ miêu tả cụ thể màu sắc của thân cá. Sắc màu ấy đã khiến cho cả không gian bừng sáng lên khi sao mờ trăng khuất. Sự pha trộn màu sắc: trắng – vàng trong câu thơ thật hài hòa sinh động. Và khi người lao động vừa thu được chùm cá nặng thì cũng là thời điếm kết thúc một ngày lao động mệt nhọc, hăng say.

+ “Lưới xếp buồm lên” là hai hình ảnh đối lập. “Lưới xếp” là kết thúc của ngày lao động. “Buồm lên” là đón chào một ngày mới. Cánh buồm giờ đây không phải vô tri vô giác mà trở nên sống động có hồn. Và ẩn chứa đằng sau cánh buồm ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt đang trỗi dậy. Cánh buồm đang vươn lên để đón nắng hồng. Nắng hồng là nắng bình minh của một ngày mới, một ngày trong trẻo, tươi sáng. Nắng hồng còn là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Đó là nắng của một ngày mới, một cuộc đời mới mà cách mạng đem lại cho chúng ta.

* Đánh giá về nội dung nghệ thuật khổ 3 – khổ 6

Như vậy, bằng sự kết hợp giữa bút pháp tử thực và bút pháp lãng mạn, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

* Luận điểm 3: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh

h. Khổ 7:

Sau một đêm cật lực “Đoàn thuyền đánh cá” trở về bến với khoang thuyền đầy ắp cá của ngư dân trong tâm thế phấn khởi, lạc quan họ lại cất tiếng hát thắng lợi hân hoan:

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của bài ca lao động . Nếu như ở khổ thơ đầu bài thơ câu hát có sức mạnh đẩy đoàn thuyền ra khơi nhanh hơn thể hiện niềm vui, sự phấn chấn thì ở đây câu hát là niềm vui với thành qủa. Câu hát ấy thể hiện sự phấn khởi của người dân sau một đêm lao động hăng say. Câu hát ấy trở thành niềm vui thắng lợi chính câu hát đã tạo nên khí thế của con người rất hăng say sau một đêm vật lộn với sóng gió đại dương chứ không hề mệt mỏi. Đoàn thuyền là hình ảnh nghệ thuật được dùng để chỉ những người ngư dân. Họ như đang chạy đua cùng với mặt trời để mau chóng mang thành quả lao động, những con cá tươi ngon vừa đánh bắt vào bờ phục vụ cho phiên chợ sang. Khí thế của con thuyền thật mạnh mẽ khi chạy đua của mặt trời:

“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới”

– Và ở khổ thơ này hình ảnh đoàn thuyền cũng một lần nữa được tác giả miêu tả thông qua một pháp nhân hóa hết sức độc đáo: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

+Phép nhân hóa đã làm cho đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ, nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên. Ko chỉ thế, lời thơ ấy còn gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng.

+ Khi “mặt trời dội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến bến . Bài thơ được kết thúc bằng một hình ảnh thơ rất đẹp: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…

Hai câu thơ có cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống rất khẩn trương. Hình ảnh “mặt trời đội biển nhô màu mới” có ý nghĩa một ngày mới lại bắt đầu và chuyến ra khơi đã kết thúc. Đoàn thuyền trở về trong khung cảnh thiên nhiên tươi sáng rực rỡ. Khi bình minh lên “Mặt trời đội biển nhô màu mới” còn là hình ảnh ẩn dụ chỉ sử đổi thay, thế đi lên của đất nước với một tương lai tươi sang. Nổi bật trên trên bức tranh cảnh đoàn thuyền đánh cá là hình ảnh “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Đây là hình ảnh đẹp của bức tranh sơn màu lung linh, huyền ảo được tạo nên bởi sự liên tưởng bay bổng từ sự quan sát tinh tế của Huy Cận. Câu thơ đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của người dân miền biển: Bằng lao động và mồ hôi của họ đã viết lên bài ca yêu đời kỳ diệu và lãng mạn làm sao, tâm hồn của những người dân trong bài thơ.

*Đánh giá: Đoạn thơ có âm hưởng vừa khỏe khoắn, sôi động, vừa phơi phới, bay bổng. Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hung, lạc quan. Cách gieo vần có nhiều biến hóa linh hoạt. Những hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng mạn được sáng tạo với bút pháp khoáng đạt sử dụng thành công thể thơ 7 chữ.

C. Kết bài

Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng đã cho thấy sự thống nhất giữa thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về lao động của Huy Cận, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Từ đoạn thơ trên giúp ta hình dung được khí thế lao động đầy hào hưng, phấn chấn của người dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Viết đoạn văn 1000 từ phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn

Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho ta thấy một bức tranh kì thú về sự giàu có và đẹp đẽ của biển cả quê hương. Viết đoạn văn khoảng 8 đến 10 câu mô tả đoạn thơ trên.

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”.

Bài làm:

“Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho ta thấy một bức tranh kì thú về sự giàu có và đẹp đẽ của biển cả quê hương”. Lòng biển mênh mông là nơi cư ngụ của bao loài cá quý:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.

Trong khuôn khổ môt hai câu thơ. Huy Cận khó có thể gọi tên tất cả những loài cá của biển cả nhưng qua cách nhà thơ liệt kê: cá nhụ, cá chim cùng cá đé. cá hồng người đoc đã có thế cảm nhân đươc sự đông đúc, phong phú của muôn vàn loài cá, đàn cá chốn biển khơi. Chẳng những giàu có, biển cả quê hương còn đẹp đẽ một cách lạ kì:

“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”.

Nhà thơ chỉ tả cá, tả nước mà gợi cả hình ảnh bầu trời. Có lẽ đây là một đêm trăng quang đãng, bầu trời rất sáng và có rất nhiều sao. Vậy nên chỉ một cái quẫy đuôi của chú cá song tinh nghịch nào đó mà đã làm hắt lên một màu “vàng chóe” đậm sắc, trù phú. Hình ảnh ấy càng được tôn lên bội phần bởi một liên tưởng tài tình:

“Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Những đợt sóng dập dềnh lên xuống như hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng đập vào bãi cát được liên tưởng như đang “lùa nước Hạ Long”. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kỳ ảo.

Khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã kết lại bài thơ bằng những hình ảnh huy hoàng, mạnh mẽ thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của con người. Em hãy viết đoạn văn phân tích khổ thơ này để làm rõ nhận định đó

Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn của tác phẩm, khổ cuối của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang “chạy đua cùng mặt trời”. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng:

“Mặt trời đội biển nhô màu mới”

Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng cùng bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:

“Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước.

Viết đoạn văn nghị luận khoảng 8 đến 10 câu về vẻ đẹp của người dân làng chài đoàn thuyền đánh cá

Trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận ngoài bức tranh thiên nhiên thơ mộng thì còn hiện lên hình ảnh người dân chài đánh cá tràn đầy sức sống. Những người dân chài hăng say lao động không quản ngày đêm làm giàu cho quê hương đất nước. Người dân chài ra khơi đánh cá với tư thế khẩn trương, mau lẹ tích cực nhưng vẫn náo nức rộn rã tiếng cười. Người dân chài hiện lên như vị chủ nhân của đại dương mênh mông. Người dân chài ra khơi với những câu hát ngân vang tươi vui rộn rã vang vọng giữa biển khơi. Đều đó không chỉ cho thấy tinh thần lao động đầy hăng say hào hứng mà ta còn thấy được một tâ hồn đầy lạc qaun và tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống mới của người dân miền biển. Những chàng trai chài lưới hiện lên với những nét phác họa đầy khỏe khoắn, gân guốc trong cảnh kéo lưới. Cụm từ “kéo xoăn tay” cho ta thấy những bắp thịt săn chắc cuồn cuộn của những người ngư dân. Qua bài thơ, Huy Cận đã phác họa hình ảnh người dân chài với vẻ đẹp mạnh mẽ và tinh thần lạc quan sôi nổi.

Viết đoạn văn tổng phân hợp (khoảng 12 câu) nêu cảm nhận về 4 câu thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá

“Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Với khổ thơ đầu, tác giả đã mỏ ra một hình ảnh đẹp về đoàn thuyền ra khơi trong bức tranh thiên nhiên kì vĩ hùng tráng:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa”.

Khi sắc tối đang từ từ chiếm trọn không gian bao la, mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ, sáng rực dần lặn xuống mặt biển. Màn đêm buông xuống như tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa tạo nên nét huyền diệu, mĩ lệ của thiên nhiên vừa tạo ra sự nhanh chóng, gấp gáp kết thúc một ngày dài. Nhưng đó không phải ngày tàn, u ám như trong bức tranh của tác phẩm Hai đứa trẻ mà là một ngày mới mở ra cho những người con của biển cả:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Đoàn thuyền – tạo ra ấn tượng về sự tấp nập, nhộn nhịp, tinh thần lao động hăng say của những ngư dân. Chữ “lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động ổn định của người dân chài ngày qua ngày, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự lao động của con người. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn và cũng chất chứa bao hi vọng về những khoang thuyền đầy ắp cá. Tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe khoắn, tươi vui, căng tràn sức sống và tinh thần say mê lao động. Đoạn thơ là bức tranh khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hình ảnh đoàn thuyền ra khơi với khí thế hào hứng say mê, tràn đầy sức sống, với tâm hồn lãng mạn của người làm chủ đất nước thật đáng trân trọng tự hào.

Viết đoạn văn cảm nhận về 4 câu thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một thế thống nhất, cảm xúc phát triển theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, từ lúc bắt đầu và kết thúc. Thời điểm khác với mọi hành động trên đất liền là từ khi mặt trời lặn đến lúc bình minh lên. Nếu bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi lao động tập thể và người lao động trên biển thì khổ thơ mở đầu là khúc hát ra khơi và khổ kết là khúc khải hoàn trở về sau một đêm hăng say lao động và thắng lợi trở về của người lao động.

Mở đầu bài thơ là khúc hát lên đường của người lao động trên biển cả.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hai câu thơ mở đầu khái quát thời điểm xuất phát của đoàn thuyền đánh cá bằng hình ảnh đẹp tráng lệ. Nghệ thuật nhân hóa so sánh của thiên nhiên trên biển. Mặt trời được ví như hòn lửa- một hình ảnh hùng vĩ của thiên nhiên. Biển lúc hoàng hôn tưởng tượng như một ngôi nhà lớn có động tác như con người. “Tắt lửa, cài then, sập cửa” màn đêm như tấm cửa sập xuống. Đóng lại một ngày nghỉ ngơi nhưng đó lại là lúc dân trài ra khơi cất tiếng hát căng buồm xuôi gió khơi. Cái khí thế bắt đầu của lao động thật hào hứng, phấn khởi của con người. Hình ảnh cánh buồm gió khơi và câu hát tạo ra khung cảnh vừa thực vừa lãng mạn, tâm tư con người gửi gắm trong câu hát: Phấn khởi, mê say với công việc hi vọng và tự hào về sự giàu đẹp của biển quê hương. Có thể thấy, cảnh ra khơi của đoàn thuyền thật tráng lệ, đầy niềm vui khí thế phấn khởi không chỉ người lao động và đó cũng là niềm vui của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống lớn của thiên nhiên đất trời.

Viết đoạn văn phân tích 3 khổ đầu trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Trong các tác phẩm thơ đã đọc, em thích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ ra đời sau một chuyến đi thực tế ở Hòn Gai của tác giả. Khung cảnh lao động hăng say của những người đánh cá trên biển trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo cảm xúc cho nhà thơ. Bài thơ với những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, những sự liên tưởng ý nhị giàu hình ảnh, cảm xúc, nhà thơ đã tạo cho tác phẩm một sức sống mãnh liệt và một vẻ đẹp huy hoàng. Trong bài thơ, có đoạn thơ:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa,

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Hát rằng cá bạc biển Đông lặn

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

Đã để lại cho em nhiều cảm xúc. Toàn bài là một chuyến đánh cá đêm trên biển. Và đoạn thơ trên là mở đầu của chuyến đi ấy cho cả không gian và thời gian. Đó là một buổi hoàng hôn trên biển với một vẻ đẹp kì vĩ:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Ngay từ hai câu thơ đầu nhà thơ đã khéo léo dùng những hình ảnh cụ thể sinh động “mặt trời” “biển” “sóng” kết hợp với biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa để tạo nên một khung cảnh thời gian đang biến chuyển về đêm.

Hình ảnh mặt trời rực rỡ như hòn lửa đang lặn dần trong mặt biển báo hiệu một ngày đã trôi qua và cũng như muốn nhường cho mặt biển ấy một hoạt động lúc vào đêm. Chỉ với biển, với sóng, tác giả tạo nên một sự nhân hóa vừa mang nét kì bí vừa như khép lại một thế giới này để rồi mở ra một thế giới khác cũng đẹp và huyền ảo của biển đêm.

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

“cài then” “sập cửa”, những hành động nghỉ ngơi lại được thực hiện bởi “sóng” “đêm” bởi đó chính là điều kiện mà con người nơi đây đã sống: gần biển, trên biển.

Song song với sự nghĩ ngơi đó, khi mà màn đêm buông xuống, nơi nơi chìm vào sự yên nghỉ thì biển lại đón nhận những hoạt động mới, của những con người luôn hăng say với công việc:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Tác giả đã khéo lồng vào chữ “đã” (cài then) của câu thơ trên với chữ “lại” ra khơi ở câu dưới một sự so sánh về ý nghĩ thật kín đáo: vũ trụ đã nghỉ ngơi hoàn toàn nhưng cũng vào thời điểm ấy “đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Những người đánh cá trên đoàn thuyền ấy đã cho thời điểm thích hợp với công việc mặc cho nó ngược lại với quy luật vũ trụ, bởi họ là những người lao động, sống để lao động và mang theo quyết tâm chinh phục thiên nhiên cùng với công việc của mình: công việc đánh cá trên biển. Vì thế chuyến đi của họ tràn đầy lời ca tiếng hát, nhiệt huyết hăng say lao động.

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Vì khí thế của những người ra đi hăng say như thế nên tác giả đã dùng một hình ảnh thật đẹp và nên thơ, lời ca tiếng hát hào hùng đã cùng với gió khơi làm căng buồm kéo nhanh con thuyền đi ra khơi hoạt động. Khi ra đi, những người đánh cá đã mang quyết tâm đó, họ đã hát lên bài ca lao động hào hùng. Họ, những con người hiên ngang, ra đi giữa biển, phục vụ đời sống con người.

Biển của đất nước chúng ta rộng lớn, bao la, biển đẹp bao nhiêu, biên cũng nhiều tài nguyên bấy nhiêu, tài nguyên của biển là cá, cá cũng tô đẹp cho biển:

Hát rằng cá bạc biển Đông lặn

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Biển giàu đẹp biển có nhiều cá. Tác giả đã ví đoàn tàu như đoàn thoi từ đó liên tưởng đến tấm vải dệt là biển. Một hình ảnh đẹp và khoáng đạt biết bao! Từng đoàn cá như những con thoi ngang dọc trên “tấm vải” dệt là biển, tạo nên những luồng sáng lấp lánh giữa biển đêm.

Yêu vẻ đẹp của biển, thán phục sự giàu có của biển, những người đánh cá mong muốn đánh bắt được nhiều cá để phục vụ cho đất nước.

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!.

Câu nói như một lời kêu gọi “đoàn cá” nhưng cũng là lời gọi nhau, những người đánh cá, hãy nhanh tay lao động.

Những người đánh cá ra đi trong buổi đêm cùng với câu hát, với tâm hồn hăng say lao động. Họ ra đi hiên ngang giữa biển trời:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Khí thế của những người đánh cá giữa biển đêm mới thật kiêu hùng: Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Trí tưởng tượng của tác giả thật đẹp, sự liên tưởng bay bổng đã bao trùm lên những đoàn thuyền đánh cá bằng những hình ảnh đẹp, đầy cảm xúc. Con thuyền lái gió đi giữa biển trời, cánh buồm làm bạn với gió trăng. Những hình ảnh liên tưởng hùng vĩ mà nên thơ. Con người ở giữa thiên nhiên, làm bạn với thiên nhiên.

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Người lao động ra đi với quyết tâm chinh phục thiên nhiên và tô đắp cho thiên nhiên ngày càng tươi đẹp.

Câu thơ với biện pháp nhân hóa đã biến con thuyền biết “đậu” “dò” biển cả. Bởi người trên thuyền luôn tìm kiếm tài nguyên của biển phục vụ cho đời sống.

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá có kỹ thuật đan như một thế trận, để thu bắt những gì biển đã hào phóng trao tặng cho ta.

Đoạn thơ miêu tả không gian và thời gian mở đầu của một cuộc đánh cá đã tạo nên cho cả bài thơ một cái nền vừa đẹp, vừa hừng vĩ, vừa nên thơ. Đoạn thơ bao trùm bởi bút pháp liên tưởng lãng mạn nhưng giàu chất thơ và cảm xúc. Đọc thơ ta có tâm trạng hào hứng của con người ra khơi, tâm trạng xúc động và tự hào trước thiên nhiên mà ta cố tâm chinh phục với mục đích làm giàu thêm cho quê hương đất nước.

Tuy chỉ là một đoạn thơ trong cả bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá’’ nhưng đoạn thơ ấy để lại cho em nhiều cảm xúc nhất vì nó mang một sức sông mãnh liệt của những con người lao động, và biển trong đoạn thơ đã được tác giả vẽ lên những nét đẹp vừa kì bí vừa huy hoàng như cuốn hút em vào thiên nhiên kì diệu. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã truyền cho em một niềm tin và sức sông mới, giúp em thêm yêu những người lao động và quê hương mình, tạo cho em quyết tâm mai sau khôn lớn sẽ đi xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp.

Danh sách đề thi phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận

Đề 1: Phân tích Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

Đề 2: Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

Đề 3: Cảm nhận của em về 2 khổ thơ đầu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Đề 4: Phân tích khổ đầu và khổ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Đề 5: Cảm nhận của em về khổ thơ 3,4,5,6 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Đề 6: Cảm nhận của em về 2 khổ thơ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Đề 7: Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”

Đề 8: Vẻ đẹp của con người lao động trong bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”

Đề 1: Phân tích Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

Mở bài

Huy Cân là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của con người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng lớn. Nhưng kể từ sau cách mạng tháng Tám, đất nước hồi sinh, hồn thơ Huy Cận như sống lại và có nhiều chuyển biến. Thơ ông không còn ưu sầu, ảo não nữa mà chan chứa niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc sống, vào những con người mới. Năm 1958, sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và chứng kiến không khí lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi của nhân dân ta trong những ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhờ thơ vui cùng mừng vui, xúc động. Từ đó ông sáng tác nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản hùng ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên đất nước con người bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp.

Thân bài

Ngay mở đầu bài thơ ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ khoắn trong cảnh đoàn thuyền ra khơi. Đó là cảnh ra khơi trong buổi hoàng hôn thật huy hoàng, tráng lệ, đầy sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Biện pháp so sánh độc đáo gợi lên hình ảnh mặt trời như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn sâu vào lòng biển cả để lại trên mặt biển những tia sáng đỏ ối, báo hiệu một ngày mới đã trôi qua, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Sang đến câu 2, hình ảnh thơ càng trở nên mới lạ độc đáo, thể hiện một trí tưởng tượng vô cùng phong phú của nhà thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.

Trong cách cảm nhận của Huy Cận, vũ trụ giống như một ngôi nhà lớn, còn những con sóng lăn tăn trên mặt biển chính là cái then cài khoá chặt cánh cửa của màn đêm. Câu thơ gợi cho ta cảm giác vũ trụ như đang chìm trong trạng thái nghỉ ngơi, và bóng tối bắt đầu bao trùm lên thiên nhiên cảnh vật nhưng đó lại chính là lúc:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Đêm tối vạn vật chìm trong giấc ngủ. Đó cũng là lúc con người lại bắt đầu lao động, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Hình ảnh thơ nói lên sự cần cù nhiệt tình lao động, chịu thương chịu khó của những người dân vùng biển.

Công việc đánh cá nhọc nhằn vất vả, hiểm nguy nhưng đoàn thuyền lại ra khơi trong tiếng hát. Tiếng hát khoẻ khoắn vang vọng khắp cả một vùng sông nước bao la, rộng lớn và cả trong lòng người thể hiện một niềm vui tươi, phấn khởi, đầy lạc quan tin tưởng của người đánh cá lúc ra khơi. Và chính tiếng hát đó không chỉ làm cho công việc lao động đỡ nhọc nhằn vất vả mà nó còn tạo nên một sức mạnh vật chất vô cùng to lớn cùng với gió biển đưa con thuyền lao nhanh về phía trước. Cả đoàn thuyền ra khơi trong một khí thế vô cùng mạnh mẽ đầy tin tưởng trong cuộc hành trình chinh phục biển cả.

“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồn sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”!

Những câu thơ thể hiện trực tiếp khúc ca say mê của người đánh cá. Họ mong muốn trời yên biển lặng để đánh cá được nhiều, để cuộc sống được đủ đầy no ấm. Biện pháp so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” cho ta cảm nhận biển Đông bao la rộng lớn, trù phú, chất chứa trong mình biết bao nhiêu là cá. Nhìn từng đàn cá thu bơi lội thành từng đàn, những con cá với những chiếc vẩy bạc nối tiếp nhau di chuyển trong nước tạo thành những luồng sáng lấp lánh trên mặt biển tối đen, nhà thơ cảm nhận mặt biển như biến thành khung cửi khổng lồ còn những con cá kia chẳng khác nào những chiếc thoi đưa thoăn thoát đang ngày đêm âm thầm dệt nên tấm áo choàng rực rỡ cho vũ trụ về đêm.

Cách so sánh vô cùng độc đáo, sự xuất hiện của những đoàn cá thu như làm sáng bừng lên cả một không gian biển cả bao la rộng lớn làm cho cảnh vật ngời sáng, lung linh, lấp lánh. Ánh sáng ấy gieo vào long người một niềm vui mừng, hân hoan khôn xiết cho nên cái cách mà người nông dân gọi cá “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” nghe có gì đó thân thương, trìu mến ẩn chứa trong đó một niềm khát khao, ước vọng mong muốn đánh bắt thật nhiều cá, hải sản quý hiếm để góp phần làm giàu cho quê hương, cho tổ quốc thân yêu.

Cảnh đoàn thuyền đánh bắt cá trong đêm:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng,

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

“Lái gió”, “buồm trăng” là những cách nói vô cùng sáng tạo, mới lạ độc đáo đem đến cho câu thơ những hình ảnh vừa lãng mạn, bay bổng vừa nên thơ, kì vĩ, tráng lệ. Đọc câu thơ người ta cảm nhận người, thuyền, thiên nhiên như hoà hợp làm một. Con thuyền ra khơi, lướt đi giữa lớp mây cao, biển bằng thật hùng dũng hiên ngang nó ra khơi không phải chỉ với khí thế hăm hở do người cầm lái mà còn được thiên nhiên nâng đỡ chở che.

Ở đây gió trở thành bánh lái của con thuyền. Chính con thuyền có thể lái cả gió điều khiển nó theo ý muốn của mình. Cánh buồm tuy nhỏ bẻ nhưng có thể mang theo cả vầng trăng trên cao trong suốt cả một hành trình dài. Ánh trăng lung linh bang bạc chiếu sáng cả không gian làm cho cảnh vật trở nên nên thơ, huyền ảo. Ở đây ta nhận ra con thuyền tuy ra khơi giữa không gian biển cả bao la rộng lớn mà không hề nhỏ bé. Nó “lướt” đi vun vút như một con tuấn mã băng băng tiến về phía trước mà không hề sợ hãi. Xung quanh nó là gió trăng làm bầu bạn. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng dũng biết bao. Con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, cảnh vật:

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

Hai câu thơ gợi lên những cuộc đánh bắt cá xa bờ đầy những gian khổ hiểm nguy. Nhưng không vì thế khiến lòng người nao núng. Bởi họ mang trong mình nỗi khát khao chinh phục biển cả, thám hiểm, thăm dò “bụng biển” để tìm kiếm những luồng cá lớn.

Dưới ngòi bút miêu tả tài hoa, sáng tạo, lãng mạn của Huy Cận, cuộc đánh bắt cá của ngư dân trên biển bỗng trở thành những cuộc thuỷ chiến đầy gay go, quyết liệt. Con người dùng chính trí tuệ và sức mạnh của mình để chinh phục đại dương, biển cả. Thế trận con người bày ra bằng những tấm lưới chắc chắn đan vào nhau, bủa vây sẵn sàng chờ đón cá. Vừng bước, từng bước con người dành lấy từ bàn tay vĩ đại của thiên nhiên những nguồn khoáng sản, những gì quý giá nhất để góp phần làm giàu thêm quê hương đất nước, hàn gắn những vết thương của chiến tranh.

“Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.

Biện pháp liệt kê: “cá nhụ, cá chim cùng cá đé / Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” gợi lên sự trù phú, giàu có của biển cả nước ta. Có biết bao loài tôm cá, hải sản quý hiếm mà đâu phải nơi mênh mông làm rực sáng cả một biển trời. Những con cá tung tăng bơi lội, đùa giỡn, tắm mình dưới ánh sáng của vầng trăng và những chiếc đuôi nhỏ bé của nó như đang quẫy đạp vào ánh trăng vàng đang lung linh trong mặt nước.

Một cảnh tượng thiên nhiên thật thơ mộng, ánh trăng bàng bạc chiếu sáng khắp cả không gian lung linh, huyền ảo. Ta ngồi đây mà nghe xung quanh mình những nhịp thở đều đặn màn đêm của đại dương bao la rộng lớn: Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Đêm thở, lại một cách dùng từ rất sáng tạo, độc đáo của nhà thơ Huy Cận. Ngòi bút nhân hoá của ông đã khiến cho màn đêm trở thành một sinh vật khổng lồ, có sự sống như con người. Nhịp thở của màn đêm chính là âm thanh của những cơn sóng tràn bờ đều đặn, liên tục, không ngừng nghỉ.

Đó không chỉ là tiếng sóng, là những âm vang từ ngoại cảnh mà đó còn là những âm vang, những rung động, cảm xúc trong lòng người, thấy mình với vũ trụ không còn ngăn cách. Mỗi bước đi sự chuyển mình của thiên nhiên, trời đất, vũ trụ con người dường như đều cảm nhận được một cách kì diệu, tinh tế. Câu thơ không chỉ gợi lên âm thanh mà tràn đầy hình ảnh, những vì sao lung linh toả sáng như từng bước từng bước xô đẩy con sóng vào bờ, mặt biển lấp lánh ánh trăng sao êm đềm, sáng trong, dịu mát.

Sang khổ thơ thứ 5, con người – chủ thể của bức tranh thiên nhiên nên thơ tươi đẹp được miêu tả trong tư thế lao động miệt mài, thoải mái khoan thai với những lời ca câu hát vút cao, trong trẻo:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”.

Tiếng hát lại một lần nữa vút cao bay bổng, sảng khoái ung dung. Ánh trăng lung linh in xuống dòng nước rồi theo những cơn sóng lăn tăn đánh nhẹ vào mạn thuyền hoà cùng nhịp gõ cá của ngư dân. Hiện thực cuộc sống chỉ thế nhưng qua cách cảm nhận, miêu tả của Huy Cận thì cảnh vật hiện ra bỗng trở nên có hồn. Ánh trăng trên cao như muốn hoà mình, gởi những tia sáng vàng óng ả để nâng đỡ giúp cho công việc đánh bắt của người dân đỡ phần nhọc nhằn vất vả.

Biển cho ta cá như lòng mẹ: câu thơ ví von so sánh như một lần nữa khẳng định tấm lòng bao la của biển cả như người mẹ hiền ngày đêm đem hết sự sống của mình để nuôi dưỡng con khôn lớn trưởng thành. Biển cả đã bao đời nay hào phóng ban tặng cho con người biết bao tài nguyên, hải sản quý hiếm để nuôi dưỡng sự sống của mỗi người chúng ta. Con người cứ ngày đêm khai thác lấy đi từ lòng đại dương biết bao nguồn lợi lớn nhưng biển cả thì giống như người mẹ hiền cứ cho đi mà không hề nuối tiếc. Câu thơ thể hiện lòng trân trọng, biết ơn sâu sắc của con người đối với thiên nhiên, bờ biển quê mình đã nuôi dưỡng đem lại cho con người cuộc sống tốt đẹp, đủ đầy no ấm.

Sau một ngày lao động nhọc nhằn vất vả, giờ đây khi sao mờ đi, bình minh ló dạng, mặt trời vươn mình khỏi mặt biển để đón chào ngày mới cũng là lúc họ khẩn trương xếp lưới, căng buồm trở về nhà:

“Sao mờ kéo lười kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

Từ ngữ gợi tả độc đáo “kéo xoăn tay chùm cá nặng” giúp ta hình dung những thân hình vạm vỡ đang ra sức kéo mẻ lưới cuối cùng. Cá nằm trong lưới nặng đến mức những bắp tay của học nổi lên cuồn cuộn. Cá chi chít san sát nhau như một chùm quả gợi lên trong lòng người biết bao niềm vui mừng hạnh phúc khi nhìn thấy những chùm cá tươi roi rói – kết quả khả quan của một ngày lao động nhọc nhằn vất vả. Họ ra đi trong tiếng hát và trở về với một khoan thuyền đầy cá nặng.

Nhưng có lẽ đẹp nhất là hình ảnh “vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông”. Dưới ánh sáng bình minh loé lên, những con cá mắc vào lưới càng trở nên rực rỡ. Dường như ngoài bản chất nhà thơ, Huy Cận còn mang trong mình tố chất của người hoạ sĩ. Cách phối màu “bạc, vàng” được vận dùng tài tình khéo léo, tô đậm thêm thành quả lao động của người dân vùng biển.

Câu thơ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” với các động từ “xếp, lên, đón” và cách ngắt nhịp 2/2/3 diễn tả mọi công việc diễn ra theo trình tự một cách thành thạo, nhanh chóng để kịp thời trở về đất liền. Hình ảnh lưới xếp và cánh buồm được căng phồng lên trong gió như khép lại một màn đêm mệt mỏi mở ra một buổi sáng đẹp trời với những phiên chợ tấp nập đông vui:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Đây là lần thứ 3, Huy Cận nhắc lại câu hát này. Lần đầu là tiếng hát hứng khởi lúc ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Tiếng hát lần thứ hai là tiếng hát say mê lao động: “Ta hát bài ca gọi cá vào”. Và lần cuối cùng chính là tiếng hát của niềm vui thắng lợi: “Câu hát căng buồm với gió khơi”. Câu hát thay ngọn gió làm căng cánh buồm đẩy thuyền về đất liền trong một tư thế mới: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.

Tác giả đã nhân hoá và nói quá hai sự vật “đoàn thuyền và mặt trời” đang chạy đua cùng nhau. Trong cuộc đua không cân sức ấy, con người đã thắng. Đất liền chào đó những đứa con thắng trận trở về với khung cảnh thật đẹp đẽ kì vĩ. Vầng dương bao la toả những tia nắng ấm áp, đẹp lung linh xuống mặt biển. Và mặt trời như từ từ dưới lòng sâu biển cả đang từ từ đội nước nhô lên. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng vĩ, tràn đầy sức sống.

Mắt cá huy hoàng là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một cuộc đời mới vui tươi xán lạn đang chờ đợi con người phía trước. Dưới ánh sáng mặt trời hàng trăm đôi mắt cá li ti đầy ắp dưới khoang thuyền phản chiếu những giọt vàng chan chứa, bống chốc tất cả đều lấp lánh rạng rỡ, nhìn về đâu người ta cũng thấy những mắt cá chiếu sáng lấp lánh như hứa hẹn một cuộc sống đủ đầy no ấm.

Trước cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn. “Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm”. Nhưng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá màu sắc buồn bã bi quan đó không còn mà thay vào đó là một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, tràn đầy niềm tin tưởng vào tương lai sức mạnh của con người, quê hương đất nước đang trên đà thay da đổi thịt, tất cả đều toát lên một cái gì đó tràn đầy sức sống, mạnh mẽ hiên ngang, con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình.

Hình ảnh thơ sang tạo, độc đáo mới lạ, câu thơ giàu chất tạo hình, khơi gợi nhiều cảm xúc rụng động thẩm mĩ nơi người đọc.

Kết luận

Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời, biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

Tập làm chủ, tập làm người xây dựng

Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!

Đề 2: Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận

Mở bài

Lê Quý Đôn từng cho rằng: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi sông kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được.” Nhưng có lẽ, theo Hoài Thanh và Hoài Chân nhận xét, nhà thơ Huy Cận chỉ “đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc.”

Thân bài

“Châu ngọc” ấy, không chỉ là “ba vạn quyển sách” bất di bất dịch, không chỉ là “cảnh núi sông kì lạ” bất biến theo thời gian mà nó là tầm vóc của vũ trụ, là nỗi niềm đi cùng với nhân thế. Trái tim của ông như đập chung một nhịp với trái tim của thời đại. Trước năm 1945, vần thơ của ông sao mà tha thiết, não nề đến thế:

“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lòng

Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa

Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa

Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi.”

Sau năm 1945, khi cả đất nước dữ dội, sôi nổi trong cơn sóng của cách mạng, nhiều thi sĩ đã lỡ bước, trượt chân, sa lầy vào thuở quá khứ buồn tủi mà lạc mất giữa nhịp thời sôi nổi. Nhưng Huy Cận, là “một phần” của thế gian này cũng dần bước ra khỏi “thung lũng đau thương” với thiên cổ sầu trước kia. Đánh dấu sự trở lại với một “chàng Huy Cận” mới, phải kể đến bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” như một khát vọng được nhìn thấy khung cảnh huy hoàng, đất nước được thống nhất hai miền Nam – Bắc, đó là “Đoàn thuyền đánh cá”. Nổi bật lên là khung cảnh thiên nhiên ẩn chứa bao điều mà nhà thơ Huy Cận muốn gửi gắm.

Không giống cách người ta ví von thiên nhiên sao cho to lớn mà rợn ngợp, tựa một vị ẩn sĩ khó đoán, thất thường như cảnh biển được miêu tả trong “Đoạn trường tân thanh”:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”

Bởi lẽ cảnh biển hay cảnh chiều tối lại gợi lên một không gian rộng lớn khiến cho con người không tránh khỏi cảm giác cô đơn, lạc lõng, lẻ loi. Tuy nhiên vẫn là không gian, thời gian ấy, vần thơ của Huy Cận lại đem đến xúc cảm ấm áp, ôm ấp, chở che cho cuộc hành trình ra khơi của những người dân chài:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

Mặt trời – thứ ta vốn coi thật xa xôi, vĩnh hằng, thậm chí ta còn chưa một lần dám nhìn thẳng, ấy vậy lại được Huy Cận so sánh với hòn lửa – một vật tưởng chừng như hoàn toàn đối lập, nhỏ bé, tầm thường, thứ ngày nào ta cũng thấy trong đời sống hàng ngày. Bằng cách coi mặt trời như một hòn lửa, nhà thơ đã khéo léo khiến cảnh sắc thiên nhiên không còn vời vợi như thực tại mà đem lại cảm giác gần gũi, sinh động hơn bao giờ hết. Đối với Huy Cận, thiên nhiên không phải kẻ thù để ta chinh phục, cũng chẳng phải điều gì đó nguy hiểm mà ta phải tránh xa. Thiên nhiên là một người bạn đồng hành, một người mẹ có tấm lòng bao la, thấm thía tình cảm với con người, cho ta miếng ăn cái mặc. Nên phương thức ông nhắc đến thiên nhiên, như thể một người bạn cũ đã lâu, vẫn luôn lặng thầm kề bên ta. Nhà thơ so sánh như vậy sở dĩ không phải để làm mất đi tầm vóc cao cả của thiên nhiên mà là nhằm đưa những điều tưởng chừng vĩ đại, bất tận như sóng hay màn đêm đều bỗng hóa thành một ngôi nhà thân thương của những người dân, luôn chào đón họ trở về trong vòng tay mỗi khi hoàng hôn dần buông. Lao động lúc nào không còn là một nghĩa vụ mà đã trở thành một niềm vui, một chuyến ngao du độc tấu lên những câu hát cùng ngọn gió, cùng thiên nhiên:

“Biển bằng không có dòng xuôi ngược,

Cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm.”

Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ Huy Cận không chỉ làm rõ nội dung câu hát là ca ngợi sự giàu có, trù phú của biển cả quê hương mà còn lồng ghép trong đó là lòng biết ơn dào dạt của những người dân, đã cho họ được sống vì những vẻ đẹp non nước của thiên nhiên hữu tình, đa dạng này:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Quả đúng nhứ ta vẫn thường hay nhắc nhở con cháu từ đời này sang đời sau “Rừng vàng biển bạc”. Nhà thơ Huy Cận sử dụng hình ảnh cá bạc mang giàu tính liên tưởng, vừa phác họa rõ nét cái màu bạc của vẩy cá lấp lánh trên mặt biển. Tác giả đã vẽ ra một bức tranh thủy mặc tĩnh lặng nhưng đẹp đến mức khiến lòng người dậy sóng, như nhìn thấy trước mắt cảnh tượng hùng vĩ, như nghe được bên tai tiếng sóng vỗ hòa với tiếng gió hát, như ngửi được mùi nồng mặn của biển khơi. Đồng thời cũng khiến người đọc cảm nhận sâu sắc biển cả quê hương, đất nước ta có chăng từng đẹp đẽ, quý báu đến nhường này. Có lẽ đọc những dòng thơ của Huy Cận, ta cũng đôi lần tự hỏi như nhà thơ Chế Lan Viên rằng “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” Hơn thế nữa, nhà thơ còn đan xen vào đó là hình ảnh so sánh “cá thu như đoàn thoi” được nhân hóa lên “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” đã thể hiện khung cảnh biển cả qua “lăng kính” của ông trở nên phong phú, thú vị đến kì lạ. Cả đại dương trở nên lấp lánh, rực rỡ vì tấm vải khổng lồ được dệt nên bởi muôn vàn loài cá quý.

Càng hân hoan hơn nữa khi người lao động cũng dành tình cảm cho biển cả như biển cả luôn dành cho họ. Họ thân thương gọi rằng “đoàn cá ơi” và xưng “ta”, dường như giữa con người và thiên nhiên không còn là bức tưởng xa cách mà trở nên khăng khít tựa những người bạn, người thân đáng mến. Điều ấy khiến ta chợt nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:

“Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?

Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?

Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy

Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?”

Nếu con người không trân trọng, mến yêu thiên nhiên đến vậy, thì có lẽ chẳng nơi đâu có sắt có vàng, chẳng nơi đâu còn luồng cá chạy và cũng chẳng nơi đâu cho điện quay chiều. Chính vì tình cảm ấy vẫn luôn sâu đậm, có trước có sau nên thiên nhiên và con người vẫn luôn đồng hành cùng nhau:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng”

Gọi Huy Cận là một nhà thơ, chẳng bằng gọi ông là một họa sĩ. Ông tạc ra một kiệt tác theo phong cách của chính mình, riêng tư, kín đáo mà lãng mạn, thơ mộng, khó phân thực ảo. Cánh “buồm trăng” kia chẳng biết là cánh buồm đầy đặn, no gió, từ xa nhìn lại tựa một vầng trăng thứ hai, hay “buồm trăng” ấy là bóng dáng vầng trăng phản chiếu dưới mặt nước, dát vàng dát bạc khắp thế gian. Chẳng ai rõ, chỉ biết mỗi người có một câu trả lời thi vị cho riêng mình, còn đối với Huy Cận, có lẽ chiếc thuyền với cánh “buồm trăng” ấy bước ra từ một thế giới cổ tích khác. Mạch liên tưởng ấy tiếp tục được khai thác ở câu thơ thứ hai. Hình ảnh “mây cao với biển bằng” đã trả lại cho thiên nhiên cảm giác vũ trụ bạt ngàn, kì vĩ quen thuộc trong thơ Huy Cận. Nhưng điều ấy không đồng nghĩa với việc con người được đặt giữa không gian ấy sẽ trở nên đơn lẻ, lo lắng mà càng thêm vẻ hào hứng, phấn khởi. Họ không chỉ mang trong mình vẻ đẹp của những người lao động mới, mà họ còn mang vẻ đẹp tầm hôn say mê trước cái đẹp của một thi sĩ:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Hai câu thơ đầu được nhà thơ sử dụng nghệ thuật liệt kệ làm nổi bật lên sự giàu có của biển cả quê hương. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn có chất lượng rất cao. Đặc biệt nhất trong số đó, được Huy Cận quan sát tỉ mỉ nhất là loài cá song. Biển khơi vốn mang tính thủy nhưng qua biện pháp ẩn dụ độc đáo “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” đã đưa tính thủy đứng cùng với tính hỏa, tạo thành sự đối lập mới mẻ, thú vị trong câu thơ của ông.

Hai câu thơ cuối, Huy Cận tiếp tục sử dụng nghệ thuật nhân hóa, tưởng chừng đơn giản nhất là gọi chú cá song là “em” nhưng lại đem đến sự thân thương, gần gũi gắn kết giữa những người dân chài với thiên nhiên một cách bất ngờ. Bên cạnh đó, động từ “quẫy” như tô thêm “tính người” cho chú cá song, khiến chú xem chừng là một đứa trẻ tinh nghịch, tò mò, hồn nhiên đùa giỡn với ánh trăng hư ảo trên mặt nước. Câu thơ cuối là một vết chấm phá độc đáo khác của nhà thơ Huy Cận. Ta có thể hiểu từ “thở” nhằm chỉ hơi thở của biển khơi, như thế một cơ thể tràn đầy sức sống, có hơi thở, nhịp đập của riêng mình. Biển đêm không hoàn toàn tĩnh lặng, im mỏi mà như đang thức để dõi theo chuyến hành trình của những người dân. Nhịp thở ấy chính là những cơn sóng nhịp nhàng, nhấp nhô như xô đẩy bóng sao trên mặt biển đêm, kiến tạo nên một không gian trữ tình, lãng mạn mà người đọc khó quên. Bên cạnh đó ta cũng có thể hiểu rằng “sao” là một từ để hỏi. Màn đêm như một người già đang thở than, phàn nàn trước trò đùa nghịch hồn nhiên của chú cá song. Đây cũng là đặc trưng của bút pháp Huy Cận sau năm 1945. Khi thiên nhiên trong thơ ông không còn một vẻ ủ ê, xót xa mà đã tươi sáng và có hồn hơn. Chẳng còn bóng hình thiên nhiên “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” của “một chiếc linh hồn nhỏ mang thiên cổ sầu” đâu nữa.

Thiên nhiên đôi lúc cũng nghiêm khắc, soi sáng để thức tỉnh con người khỏi những điều sai trái như trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình.”

Nhưng đồng thời thiên nhiên vẫn luôn vị tha, cho phép con người nương nhờ, dựa dẫm, bảo hộ họ trên những chuyến đi xa xôi bất tận, gắn bó với họ từ thuở khai thiên lập địa:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Mặt trăng không chỉ dát bạc cho cánh buồm, đưa con thuyền ra khơi mà nó còn phác họa một khung cảnh mờ ảo, cùng với sóng xô vào mạn thuyền, tạo nhịp điệu cho bài ca gọi cá đến. Chưa lần nào chông chênh trên biển mà chẳng biết mọi thú sẽ đi về đâu, ta chẳng thể nào hiểu hết nỗi lòng của những người dân chài vẫn luôn không ngừng lao động để hướng tới một hậu phương vững chắc, một xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh làm tiền đề cho chiến tuyến miền Nam. Biển cả cho họ miếng cơm manh áo, dù đôi lần bão táp gió mưa nhưng không có biển cả, họ cũng chẳng còn là một người dân chài được nữa. Tự buổi nào, từ khi sinh ra hay đã bao thế hệ trôi qua được biển khơi nuôi nấng như những đứa con, biển khởi trở thành một phần máu thịt của mảnh đất Việt Nam này. Đó là một lối liên kết từ ngàn đời, từ thật xa xưa khó nhớ, nhưng nó khó mà chặt đứt, từ bỏ. Ca dao cũng từng dùng cái dạt dào của nước để nói về lòng mẹ:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

In sâu vào trong tâm thức người Việt, không chỉ là cảnh núi non hùng vĩ, bao là mà còn là một tình thương vô tận: bao dung, vị tha, che chở cho con người như một người mẹ. Đối với người dân nơi đây, biển cả còn hơn cả một kế sinh nhai, nó đã trở thành nhà, trở thành quê hương sẽ mở rộng vòng tay chào đón, ôm ấp ta mỗi khi ta quay về. Và dù người dân chài có đến hay đi, thiên nhiên nói chung và biển cả nói riêng đều đồng hành cùng họ như một lời động viên âm thầm, lặng lẽ mà chân thành, ý nghĩa hơn bất cứ thứ hình thức gì khác:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Khổ thơ cuối, khép lại bài thơ, tạo ra kết thúc đầu cuối tương ứng. Đoàn thuyền trở về trong khúc ca khải hoàn tráng lệ, một tâm thế chủ động, đưa tầm vóc của mình to lớn đến mức đủ để chạy đua cùng mặt trời. Không giống như con người trước Cách mạng Tháng tám, luôn phải trông mong một cách mơ hồ, khắc khoải về một niềm hi vọng đổi thay cuộc sống của mình như hình ảnh những người dân nơi phố huyện hàng đêm trông chờ sự xuất hiện của đoàn tàu trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam. Con người, giờ đã dám chạy đua cùng thiên nhiên, có lẽ vì sức mạnh mà vẻ đẹp thiên nhiên đem lại là vô tận, là hi vọng về một “màu mới”, một tương lai mới cho đất nước đã bị bao trùm trong xiềng xích và kiếp nô lệ bấy lâu. Câu thơ cuối mang đậm màu sắc lãng mạn. Cách dùng từ “huy hoàng” của Huy Cảnh đã gợi lên một ấn tượng mạnh về ánh sáng của thành quả lao động và cũng là ánh sáng của một tương lai phái trước. Từ một hình ảnh tả thực khi ánh mặt trời chiếu long lanh trên mắt cá, nhà thơ đã tạo nên một tuyệt tác hào hùng về một tương lai vĩ đại phía trước sẽ được sẽ được dựng xây lên từ những người dân lao động, từ thiên nhiên của ngay hôm nay, những điều giản dị nhất.

Kết luận

Cảnh sắc thiên nhiên trong “Đoàn thuyền đánh cá” không đơn thuần chỉ bộc lộ gián tiếp vẻ đẹp của con người qua từng bức tranh mà còn thể hiện những thông điệp, ý nghĩa mà Huy Cận khéo léo gửi gắm. Đó là một niềm khát khao, hi vọng, chủ động vươn tới tương lai hào hùng, bất khuất, hiên ngang phía trước chứ không phải mòn mỏi, chờ đợi, lầm lụi ngóng về một sự ban phát niềm tin hư ảo nào khác. Tự do phải do chính tay ta kiến tạo nên mới là tự do lâu dài, bền vững nhất.

Đề 3: Cảm nhận của em về 2 khổ thơ đầu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận

Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước. Tiêu biểu là hai khổ thơ đầu bài thơ

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm

– Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường… Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”(1958).

2. Cảm nhận đoạn thơ

a. Cảnh đoàn thuyền ra khơi khi hoàng hôn buông xuống

– Mở đầu bài thơ nhà thơ miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi khi hoàng hôn buông xuống

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.

+ Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.

+Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long ở hướng Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời mọc được thôi. Vậy thì ở đây, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi, giữa biển khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ bãi. Lúc đó, xung quanh con thuyền chỉ là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn cách lặn xuống biển.

+ Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ đã so sánh “mặt trời” với “hòn lửa”. Phép so sánh gợi ra một khung cảnh rực rỡ, huy hoàng, tráng lệ. Ánh mặt trời lúc cuối chiều đỏ rực phả xuống mặt biển làm hồng rực cả một vùng biển, vùng trời – một cảnh tượng thật kì vĩ.

*Liên hệ: Xưa nay, thơ viết về cảnh hoàng hôn thường phảng phất một nỗi buồn như Thôi Hiệu viết trong bài “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” chẳng hạn:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Hay chính Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” trước CM cũng viết

” Lòng quê rờn rợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

+ Nhưng ở câu thơ đầu trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, ta lại thấy cảnh hoàng hôn hiện lên rất đẹp. Phải chăng lúc này Huy Cận đang vui, vui vì ông lại tìm được nguồn cảm hứng sáng tác sau 10 năm không thể cầm bút, vui vì ngư dân được làm chủ biển trời nên ông nhìn cảnh mới đẹp như vậy. Có lẽ là thế bởi Nguyễn Du cũng đã từng nói với chúng ta rằng “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh chỉ đẹp khi tâm trạng con người phơi phới niềm vui.

+ Cùng với phép so sánh, Huy Cận còn miêu tả thiên nhiên khi chiều xuống bằng một phép nhân hoá cũng đầy sáng tạo: “Sóng đã … cửa”. Lời thơ với các động từ mạnh ( sập, cài) đã cho ta hình dung được một cảnh tượng thật rộng lớn và đầy bí ẩn. Biển đêm với những con sóng bạc đầu chạy ngang như những chiếc then cài còn màn đêm là cánh cửa đang đóng sập lại. Chỉ với 7 chữ nhưng câu thơ gợi lên trong ta rất nhiều liên tưởng thú vị. Biển đêm vốn bí ẩn, đáng sợ, thậm chí là cuồng nộ nhưng giờ đây cũng trở nên gần gũi, ấm áp, thân thương. Vũ trụ và thiên nhiên bao la lúc này chẳng khác nào một ngôi nhà rộng lớn. còn những người ngư dân chính là các thành viên của gia đình. Thiên nhiên và con người giờ đây vô cùng gần gũi, gắn bó và hoà hợp.

Và khi thiên nhiên đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu làm việc:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

+ Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả…

b. Tiếng hát gọi cá vào

Nếu như ở khổ thơ đầu, tác giả miêu tả những người ngư dân thuyền ra khơi luôn mang theo câu hát thì đến khổ thơ thứ 2, nhà thơ nói cụ thể hơn về lời hát của họ.

” Hát rằng cá bạc biển đông lặng

Cá thu biển đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”

+ Từ “hát rằng” mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê – kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao – “cá bạc”, “cá thu” cùng biện pháp so sánh cá thu với “đoàn thoi” dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển cả.

+ Thêm vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý nghĩa: Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Hai chữ “đêm ngày” đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau “dệt” nên một tấm lưới với “muôn luồng sáng” giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này lời thơ cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động.

+ Để rồi từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một lời ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”. Lời thơ có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Nhà thơ gọi cá mà như gọi bạn. Giữa con người và thiên nhiên gần như không hề có khoảng cách. Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của họ.

3. Đánh giá

Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao động và niềm hi vọng của người dân chài. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

Kết luận

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc. Một Huy Cận trữ tình cách mạng.

Đề 4: Phân tích khổ đầu và khổ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Mở bài

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam với một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bài thơ ấy, ấn tượng với người đọc nhất có lẽ là 2 khổ thơ đầu và khổ thơ cuối của bài thơ. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi lao động tập thể và người lao động trên biển nếu khổ thơ mở đầu là khúc hát ra khơi đầy hứng khởi thì khổ cuối là khúc ca khải hoàn trở về sau một đêm hăng say lao động và thắng lợi trở về của người lao động.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa,

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Và:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới,

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Thân bài

a. Khái quát : Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh của nhà thơ Huy Cận. Bằng bút pháp tả thực kết hợp bút pháp lãng mạn, các hình ảnh đẹp, tráng lệ, bài thơ đã giúp ta nhận ra sự hoà hợp giữa thiên nhiên và con người lao động đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về quê hương, đất nước. Khổ thơ đầu nói về chuyến hành trình đánh cá gian lao và vất vả trong không khí tươi vui của đất nước, hân hoan tưng bừng cùng nhau thi đua với khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ thì khổ thơ cuối tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh với ghe thuyền đầy ắp cá. Hai khổ thơ là hai cảnh đối lập nhau nhưng thiên nhiên và con người luôn hòa quyện vào nhau.

b. Khổ 1 – cảnh ra khơi

Khổ thơ đầu của bài thơ đã gây ấn tượng cho người đọc bởi chất thơ đầy lãng mạn với cảnh mặt trời xuống biển:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

Nếu chỉ căn cứ vào thực tế ta sẽ cảm thấy như vô lí bởi biển ở phía đông nước ta vốn không nhìn thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Như thê nhà thơ Huy Cận đặt điểm nhìn nghệ thuật trên con thuyền ra khơi từ biển nhìn về phía tây nhà thơ thấy mặt trời lặn xuống biển. Mặt trời xuống biển vào lúc hoàng hôn sắp tắt, như một khói lửa lớn đang chìm dần xuống biển xanh. Màn đêm dần buông xuống và vây kín bầu trời. Hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ còn những gợn sóng là cài then cửa. Tác giả đã so sánh mặt trời cuối ngày “như hòn lửa” khiến cho cảnh hoàng hôn trở nên tráng lệ, rực rỡ chứ không ảm đạm, hiu hắt như nhiều nhà thơ khác miêu tả. Điểm thêm vào tiếng sóng dịu êm là màn đêm buông xuống qua hình ảnh nhân hóa “Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính biện pháp tu từ nhân hóa và liên tưởng đã làm cho cảnh biển đêm trở nên gần gũi với con người. Con người đi trong biển đêm mà như đang đi chính trong ngôi nhà của mình. Điều đó cũng cho thấy con người ra khơi trong tư thế yên tâm, an toàn, tự chủ. Như vậy chỉ bằng hai câu thơ Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm, khiến cảnh biển đẹp vừa hùng vĩ tráng lệ nhưng lại rất gần gũi với con người khác hẳn với cảnh hoàng hôn trong thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường buồn và hiu hắt.

* Hai Câu thơ sau:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Chuyển ý: Chính lúc thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, thì cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của Đoàn thuyền đánh cá: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”

Câu thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng náo nức của người lao động. Đoàn thuyền đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh biển lúc hoàng hôn vô cùng rực rỡ, tráng lệ cảnh vừa rộng lớn của gần gũi với con người sau một liên tưởng thú vị:

Sự mâu thuẫn làm nổi bật tư thế của người lao động trước biển cả. Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết đoán dứt khoát. Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà cả một đoàn thuyền, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ “lại” trong ý thơ “lại ra khơi” là một sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã ổn định đi vào nề nếp. Ra khơi là một công việc diễn ra thường xuyên đều đặn một nhịp sống quen thuộc.

Cùng ra khơi trên những con thuyền là những người lao động. Họ mang theo câu hát khúc hát lên đường vang vọng: ” Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn, niềm say sưa, hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với những công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho tổ quốc. Câu hát của người lao động như có một sức mạnh vật chất cùng với ngọn gió làm căng buồm chuẩn bị cho con thuyền lướt sóng ra khơi. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe lạ mà từ sự gắn kết ba sự vật, hiện tượng: Câu hát, căng buồm, gió khơi là ba chi tiết nghệ thuật mang tính tượng trưng diễn tả tinh thần hứng khởi, hăng say và khí thế ra khơi của người dân miền biển. Như vậy bức tranh cảnh trời đêm không hề yên tĩnh mà lại ngân vang câu hát của người lao động.

c. Khổ 7: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong cảnh bình minh:

Chuyển ý: Nếu như khổ thơ đầu là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ tráng lệ. Thì khổ thơ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong cảnh bình minh với khoang thuyền đầy ắp cá.

Sau một đêm đánh cá vất vả đoàn thuyền lại trở về vào lúc bình minh:

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

Câu thơ “câu hát căng buồm” với gió khơi, gần như nguyên vẹn câu thơ trong khổ đầu tiên. Đây là lần thứ ba tiếng hát vang lên. Tiếng hát biểu hiện cho niềm vui của những người đánh cá khi được hưởng thành quả rực rỡ sau một đêm lao động vất vả. Tiếng hát ấy vang lên hùng tráng khi đoàn thuyền đang rẽ sóng trở về. Nhà thơ nhân hóa “đoàn thuyền” đang “chạy đua cùng mặt trời, chạy đua cùng thời gian. Hai tiếng “chạy đua” cho ta thấy những người đan chài mặc dù suốt đêm làm việc không mệt mỏi nhưng sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế của họ vẫn mạnh mẽ. Huy Cận đã nâng cao người lên tầm vóc vũ trụ rộng lớn. Con người thật xứng đáng với tầm vóc chủ nhân biển cả, vẫn muốn dành thời gian để lao động, để cống hiến.

“Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa “mặt trời đội biển” gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên và cái “màu biển” là màu hồng bình minh, là lời chào đón của thiên nhiên với những người lao động cần cù. Đặc biệt câu thơ cuối cùng gợi ra hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào trên khoang cũng đầy ắp cá. Ánh mặt trời chiếu vào mắt cá khiến cho mỗi mắt cá như một mặt trời nhỏ, lấp lánh. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng” vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp đang mở ra trước mắt. Đó là một hình ảnh đầy sáng tạo và lãng mạn.

d. Đánh giá khổ 1 + khổ 7

Bài thơ có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ. Bút pháp thơ khoáng đạt, âm hưởng thơ vừa khoẻ khoắn, sỏi nổi lại vừa phơi phới bay bổng; lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, cách gieo vần có nhiều biến hoá linh hoạt, vấn trắc xen lẫn vần bằng; hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng mạn; nhiều biện pháp tu từ đặc sắc (so sánh, nhân hoá); kết cấu đầu cuối tương ứng (lặp lại hình ảnh” mặt trời/ gió khơi/ câu hát”). Cả hai khổ đều thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên biển và con người ở cả hai thời điểm: hoàng hôn và bình minh. Thiên nhiên luôn tươi sáng, kì vĩ, tráng lệ. Con người luôn căng tràn sức sống và niềm say mê lao động.

Kết luận

Hai khổ thơ đầu và cuối được đánh giá là hay và đặc sắc nhất trong bài thơ, có sự đối lập về thời gian và không gian và có thể coi là chu trình khép kín trong cuộc hành trình của ngư dân lao động trên biển. Niềm vui khí thế phấn khởi không chỉ của người dân lao động mà còn là niềm vui của tác giả trước cuộc sống mới.

Đề 5: Cảm nhận của em về khổ thơ 3,4,5,6 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Mở bài

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca,… Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp xâm lược. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên.

Không khí xây dựng cuộc sống mới đã khiến toàn bộ sáng tác của Huy Cận thay da đổi thịt. Ta không còn thấy cái buồn rớt của một trí thức tiểu tư sản trước cách mạng, mà thay vào đó là hồn thơ say đắm, tha thiết yêu cuộc sống mới, con người mới. Những vần thơ ca ngợi là vần thơ chủ yếu trong giai đoạn sáng tác này của ông, trong đó nổi bật hơn cả là bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.

Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm

– Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường…Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”(1958).

2. Cảm nhận đoạn thơ

a. Khổ 3:

Nếu ở hai khổ thơ đầu, tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi giữa một không gian rực rỡ, huy hoàng và tráng lệ thì đến những khổ thơ tiếp theo ông tập trung miêu tả cảnh đánh bắt cá trên biển đêm.

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

+Không gian vũ trụ lúc này được mở ra nhiều chiều. Có chiều cao của bầu trời, mặt trăng, chiều rộng của mặt biển và lòng biển sâu thẳm. Thế nhưng giữa cái không gian vô cùng rộng lớn ấy, con thuyền lại không hề nhỏ bé chút nào. Nó hiện lên lớn lao và kì vĩ.

+ Bằng các động từ mạnh “lái, lướt” và các hình ảnh giàu giá trị gợi tả “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng”, lời thơ đã cho ta hình dung được tư thế làm chủ của đoàn thuyền khi ra khơi đánh cá. Con thuyền như mang cả sinh lực của đất trời, được thiên nhiên giúp sức để đánh cá trên biển.

+ Và hình ảnh con người lao động hiện lên cũng thật đẹp. Đoàn thuyền đánh cá lúc này chẳng khác nào một đoàn thám hiểm đang đi chinh phục những vùng đất mới; chẳng khác nào một đoàn quân đang tổ chứng đánh trận với tư thế làm chủ vùng đất của mình.Con người giờ đây không còn cảm thấy nhỏ bé cô đơn như trong “Tràng giang” trước cách mạng mà là thư thế làm chủ cả vũ trụ bao la rộng lớn.

b. Khổ 4

– Và bức tranh lao động của con người được điểm tô thêm bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ,độc đáo:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

+ Đọc khổ thơ, ta thấy bức tranh biển đêm hiện ra đẹp đẽ, kì ảo, sống động. Để tái hiện vẻ đẹp giàu ấy của biển cả quê hương, tác giả Huy Cận đã sử dụng phép liệt kê gợi ra các hình ảnh loài cá : cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song, … bơi lội tung tăng ngang dọc, tầng nổi tầng sâu, vun vút lấp lánh muôn màu sắc.

+ Ngôn ngữ giàu chất tạo hình “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Hình ảnh con cá song giống như ngon đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh. Ánh trăng in xuống mặt nước, cá song quẫy đuôi như quẫy cả ánh trăng khiến ánh trăng tan ra, vung bắn tung vàng chóe. Đặc biệt hơn, Huy Cận gọi cá bằng “em”, một tiếng gọi xiết bao ân tình trìu mến . Và đằng sau những vần thơ ấy ta nhận ra tình yêu tha thiết của nhà thơ với biển cả quê hương .

+ Và khổ thơ được kết thúc bằng một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo:

“Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long”

Câu thơ là một hình ảnh nhân hóa đầy sáng tạo và gợi nhiều liên tưởng trong lòng người đọc. “Đêm” đc miêu tả như một sinh vật đại dương đang “thở”, hình ảnh biển đêm vì thế mà trở nên giàu đẹp, sống động đến vô cùng.

c. Khổ 5:

Cùng với những lời ca ngợi về vẻ đẹp trù phú của biển cả, ở khổ thơ thứ 5, Huy Cận lại đưa ta đến với những người lao động luôn tràn đầy tinh thần lạc quan.

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”

+ Một lần nữa, tiếng hát của người dân lao động lại vang lên trên khắp vung biển bao la. Tiếng hát theo họ khi đoàn thuyền ra khơi, tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển cả. Giờ đây tiếng hát lại vang lên để ” gọi cá vào lưới”. Tiếng hát đã biến một công việc khó khăn, nguy hiểm thành nhẹ nhàng, thi vị. Dường như đoàn thuyền không cần đến kĩ thuật hiện đại mà họ chỉ cần cất cao tiếng hát. Tiếng hát đồng thời thể hiện niềm tin, tinh thần lạc quan của những con người lao động. Họ làm việc với tinh thần miệt mài, say mê, với niềm lạc quan phơi phới. Bởi vì họ đã trở thành người chủ đích thực của biển trời.

+ Câu thơ thứ hai là một liên tưởng, sáng tạo đặc sắc. Đoàn thuyền ra khơi khi màn đêm buông xuống, vầng trăng lên cao, ánh trăng tỏa sáng in hình xuống mặt nước. Gió thổi, sóng xô, trăng tan ra như gõ vào mạn thuyền. Câu thơ hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc: thiên nhiên vũ trụ như hòa đồng với nhịp sống, nhịp lao động của con người, nâng đỡ con người, giúp con người gọi cá vào lưới. Và có lẽ cũng chính vì thế mà nhà thơ viết :

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

+ Nghệ thuật nhân hóa, so sánh làm cho câu thơ thêm giàu sắc thái biểu cảm. Biển như người mẹ nhân hậu, ân tình, bao dung. Biển đã cung cấp cho ta biết bao tài nguyên, khoáng sản. Lòng biển bao la sâu thẳm như lòng mẹ nhân từ. Biển cho ta rất nhiều như bà mẹ nhân hậu, bao dung, đã nuôi lớn biết bao thế hệ trong âm thầm, trong lặng lẽ.

+ So sánh biển với mẹ, Huy Cận đã thay lời cho những ngư dân nói lên niềm tự hào và lòng biết ơn chân thành với biển quê hương. Vì vậy, giọng thơ chợt trở nên ấm áp, chan chứa tình người. Đối với người dân chài, biển đã gắn bó với họ. Khi buồn, khi vui họ đều có biển sẻ chia. Nước biển mặn mòi giúp họ rửa đi bao khó nhọc, ưu phiền, cay đắng. Hai câu thơ cuối vừa bộc lộ niềm tự hào, vừa là lời cảm tạ chân thành của con người với biển.

d. Khổ 6

Sau một đêm lao động hăng say, khi “sao mờ” là lúc đoàn thuyền kéo lưới lên để chuẩn bị về bến:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”

+ “Sao mờ” là lúc trời gần sáng, mặt trời đang lên. Đó là dấu hiệu báo một ngày mới bắt đầu. Con người đang giành giật với thời gian, chạy đua với thời gian để làm việc và cống hiến. TG trôi càng nhanh, con người lao động càng hăng say. Họ đang khẩn trương để kéo lưới kịp trời sáng. Một cuộc chạy đua âm thầm đang diễn ra giữa con người và thiên nhiên. Con người thì nhỏ bé, thiên nhiên thì lớn lao vậy mà con người dám chạy đua cùng thiên nhiên.

+ 2 câu thơ đã tạo nên bức tượng đài sừng sững của người lao động giữa vùng biển rộng. Hai chữ “xoăn tay” giàu chất tạo hình khiến cho người đọc hình dung tư thế của những người lao động. Đó là tư thế chắc khỏe, cường tráng, tư thế của những người đã khẳng định được vị thế của mình trên biển khơi, vị thế của người làm chủ, người chiến thắng. Bóng dáng họ sừng sững giữa biển khơi với bắp tay nổi cuộn, dưới bàn tay ấy là tấm lưới triều nặng.

+ Hình ảnh “chùm cá nặng” gợi liên tưởng thú vị: cá rất nhiều, che cả mắt lưới. Đó chính là thành quả lao động mà người ngư dân thu được sau một đêm vất vả.

“Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Lời thơ miêu tả cụ thể màu sắc của thân cá. Sắc màu ấy đã khiến cho cả không gian bừng sáng lên khi sao mờ trăng khuất. Sự pha trộn màu sắc: trắng – vàng trong câu thơ thật hài hòa sinh động. Và khi người lao động vừa thu được chùm cá nặng thì cũng là thời điếm kết thúc một ngày lao động mệt nhọc, hăng say.

+ “Lưới xếp buồm lên” là hai hình ảnh đối lập. “Lưới xếp” là kết thúc của ngày lao động. “Buồm lên” là đón chào một ngày mới. Cánh buồm giờ đây không phải vô tri vô giác mà trở nên sống động có hồn. Và ẩn chứa đằng sau cánh buồm ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt đang trỗi dậy. Cánh buồm đang vươn lên để đón nắng hồng. Nắng hồng là nắng bình minh của một ngày mới, một ngày trong trẻo, tươi sáng. Nắng hồng còn là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Đó là nắng của một ngày mới, một cuộc đời mới mà cách mạng đem lại cho chúng ta.

3. Đánh giá

Như vậy, bằng sự kết hợp giữa bút pháp tử thực và bút pháp lãng mạn, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

Kết luận

“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.

Đề 6: Cảm nhận của em về 2 khổ thơ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Mở bài

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Trong bài thơ ấy, ấn tượng với người đọc nhất có lẽ là 2 khổ thơ cuối của bài thơ.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm

– Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường…Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”(1958).

2. Cảm nhận đoạn thơ

a. Nhắc lại nội dung của những khổ thơ trên

Ở 5 khổ thơ đầu, bằng các biện pháp tu từ độc đáo, bằng những từ ngữ hình ảnh chọn lọc, các phép liên tưởng đầy thúa Huy Cận đã giúp người đọc hình dung được cảnh đoàn thuyền ra khơi giữa một không gian rộng lớn, huy hoàng, tráng lệ; cảnh đánh cá trên biển kì vĩ lớn lao để từ đó bộc lộ tình yêu, niềm tự hào về quê hương đất nước. Và tình cảm ấy tiếp tục được bộc lộ ở 1 khổ thơ cuối khi nhà thơ miêu tả cảnh đoàn thuyền kéo lưới lên để trở về.

b. Khổ 6

Sau một đêm lao động hăng say, khi “sao mờ” là lúc đoàn thuyền kéo lưới lên để chuẩn bị về bến:

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

+ “Sao mờ” là lúc trời gần sáng, mặt trời đang lên. Đó là dấu hiệu báo một ngày mới bắt đầu. Con người đang giành giật với thời gian, chạy đua với thời gian để làm việc và cống hiến. TG trôi càng nhanh, con người lao động càng hăng say. Họ đang khẩn trương để kéo lưới kịp trời sáng. Một cuộc chạy đua âm thầm đang diễn ra giữa con người và thiên nhiên. Con người thì nhỏ bé, thiên nhiên thì lớn lao vậy mà con người dám chạy đua cùng thiên nhiên.

+ 2 câu thơ đã tạo nên bức tượng đài sừng sững của người lao động giữa vùng biển rộng. Hai chữ “xoăn tay” giàu chất tạo hình khiến cho người đọc hình dung tư thế của những người lao động. Đó là tư thế chắc khỏe, cường tráng, tư thế của những người đã khẳng định được vị thế của mình trên biển khơi, vị thế của người làm chủ, người chiến thắng. Bóng dáng họ sừng sững giữa biển khơi với bắp tay nổi cuộn, dưới bàn tay ấy là tấm lưới triều nặng.

+ Hình ảnh “chùm cá nặng” gợi liên tưởng thú vị: cá rất nhiều, che cả mắt lưới. Đó chính là thành quả lao động mà người ngư dân thu được sau một đêm vất vả.

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng

Lời thơ miêu tả cụ thể màu sắc của thân cá. Sắc màu ấy đã khiến cho cả không gian bừng sáng lên khi sao mờ trăng khuất. Sự pha trộn màu sắc: trắng – vàng trong câu thơ thật hài hòa sinh động. Và khi người lao động vừa thu được chùm cá nặng thì cũng là thời điếm kết thúc một ngày lao động mệt nhọc, hăng say.

+ “Lưới xếp buồm lên” là hai hình ảnh đối lập. “Lưới xếp” là kết thúc của ngày lao động. “Buồm lên” là đón chào một ngày mới. Cánh buồm giờ đây không phải vô tri vô giác mà trở nên sống động có hồn. Và ẩn chứa đằng sau cánh buồm ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt đang trỗi dậy. Cánh buồm đang vươn lên để đón nắng hồng. Nắng hồng là nắng bình minh của một ngày mới, một ngày trong trẻo, tươi sáng. Nắng hồng còn là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Đó là nắng của một ngày mới, một cuộc đời mới mà cách mạng đem lại cho chúng ta.

c. Khổ 7

Và ở khổ thơ cuối, nhà thơ lại miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong câu hát:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời dội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

+ Câu hát ra khơi và câu hát trở về thoạt nghe thì ta tưởng nó cùng là một âm hưởng, cùng là một lối miêu tả. Những nếu đọc kĩ, ta sẽ thấy: câu hát ra khơi là “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, còn câu hát trở về là “Câu hát căng buồm với gió khơi”. Khi viết về câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để gợi cái sự hài hòa giữa ngọn gió và câu hát, từ đó tái hiện một chuyến đi thuận lợi và bình yên Còn khi viết về câu hát trở về, tác giả đã biến đổi từ “cùng” thành từ “với” để gợi niềm vui phơi phới khi họ được trở về trên con thuyền đầy ắp cá. Đó là câu hát của niềm tin vào cuộc sống mới, câu hát của niềm vui trước những thành quả lao động.

– Và ở khổ thơ này hình ảnh đoàn thuyền cũng một lần nữa được tác giả miêu tả thông qua một pháp nhân hóa hết sức độc đáo: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

+Phép nhân hóa đã làm cho đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ, nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên. Ko chỉ thế, lời thơ ấy còn gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng.

+ Khi “mặt trời dội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến bến . Bài thơ được kết thúc bằng một hình ảnh thơ rất đẹp: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…

3. Đánh giá

Như vậy, bằng sự kết hợp giữa bút pháp tử thực và bút pháp lãng mạn, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

Kết luận

Nói rằng lao động là niềm vui sáng tạo. Nói rằng biển quê ta giàu đẹp. Nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, Huy Cận đã nói được rất hay trong bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”. Với cách sử dụng màu sắc, cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tạo được nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa. Một không gian tráng lệ tràn ngập niềm vui câu hát. Một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người vì “đất nở hoa” và “biển đang hát”.

Đề 7: Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”

Mở bài

Huy Cận viết bài thơ Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh. Bài thơ ra đời trong một thời kỳ sôi nổi trên miền Bắc nước ta, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa. Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài lao động khi nhân dân làm chủ cuộc đời.

Thân bài

1. Khái quát:

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh của nhà thơ Huy Cận. Bằng bút pháp tả thực kết hợp bút pháp lãng mạn, các hình ảnh đẹp, tráng lệ, bài thơ đã giúp ta nhận ra sự hoà hợp giữa thiên nhiên và con người lao động đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về quê hương, đất nước.

2. Vẻ đẹp của thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”

Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc, theo trình tự của một chuyến ra khơi. Khi hoàng hôn buông xuống, đoàn thuyền bắt đầu ra khơi rồi đánh cá trong đêm, đến khi trở về cũng là lúc bình minh ló rạng. Và thiên nhiên cũng hiện lên vô cùng đẹp đẽ theo trình tự ấy.

a. Hình ảnh thiên nhiên đẹp tráng lệ, kì vĩ khi hoàng hôn buông xuống nhưng cũng rất đỗi gần gũi thân thương.

Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, huy hoàng, tráng lệ. Miêu tả bức tranh thiên nhiên ấy, Huy Cận đã sử dụng một phép so sánh vô cùng độc đáo:

” Mặt trời xuống….. sập cửa”

Đọc câu thơ mở đầu, người đọc sẽ không khỏi thắc mắc bởi biển VN là biển phía đông, ta chỉ có thể nhìn thấy hình ảnh mặt trời mọc trên biển nhưng ở đây nhà thơ lại viết “mặt trời xuống biển”. Rõ ràng là trong câu thơ này, nhà thơ đã chọn cho mình một điểm nhìn nghệ thuật. Điểm nhìn cấy có thể từ trên một hòn đảo ngoài khơi xa, cũng có thể là trên một con thuyền đang ra khơi bắt cá. Từ điểm nhìn ấy nhìn về đất liền, qua một khoảng biển rộng, nhà thơ có thể thấy được hình ảnh “mặt trời xuống biển”. Và đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ thì điểm nhìn nghệ thuật này hẳn là trên một con thuyền. Và nếu như thế thì “Đoàn thuyền đánh cá” chính là bài thơ của những con người lao động mà Huy Cận đã nói thay cho tiếng lòng của những người ngư dân.

Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ đã so sánh “mặt trời” với “hòn lửa”. Phép so sánh gợi ra một khung cảnh rực rỡ, huy hoàng, tráng lệ. Ánh mặt trời lúc cuối chiều đỏ rực phả xuống mặt biển làm hồng rực cả một vùng biển, vùng trời – một cảnh tượng thật kì vĩ. Xưa nay, thơ viết về cảnh hoàng hôn thường phảng phất một nỗi buồn như Thôi Hiệu viết trong bài “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” chẳng hạn:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Hay chính Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” trước CM cũng viết

” Lòng quê rờn rợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Nhưng ở câu thơ đầu trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, ta lại thấy cảnh hoàng hôn hiện lên rất đẹp. Phải chăng lúc này Huy Cận đang vui, vui vì ông lại tìm được nguồn cảm hứng sáng tác sau 10 năm không thể cầm bút, vui vì ngư dân được làm chủ biển trời nên ông nhìn cảnh mới đẹp như vậy. Có lẽ là thế bởi Nguyễn Du cũng đã từng nói với chúng ta rằng “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh chỉ đẹp khi tâm trạng con người phơi phới niềm vui.

Cùng với phép so sánh, Huy Cận còn miêu tả thiên nhiên khi chiều xuống bằng một phép nhân hoá cũng đầy sáng tạo: “Sóng đã …cửa”. Lời thơ với các động từ mạnh ( sập, cài) đã cho ta hình dung được một cảnh tượng thật rộng lớn và đầy bí ẩn. Biển đêm với những con sóng bạc đầu chạy ngang như những chiếc then cài còn màn đêm là cánh cửa đang đóng sập lại. Chỉ với 7 chữ nhưng câu thơ gợi lên trong ta rất nhiều liên tưởng thú vị. Biển đêm vốn bí ẩn, đáng sợ, thậm chí là cuồng nộ nhưng giờ đây cũng trở nên gần gũi, ấm áp, thân thương. Vũ trụ và thiên nhiên bao la lúc này chẳng khác nào một ngôi nhà rộng lớn. còn những người ngư dân chính là các thành viên của gia đình. Thiên nhiên và con người giờ đây vô cùng gần gũi, gắn bó và hoà hợp.

b. Hình ảnh thiên nhiên khi màn đêm buông xuống mang vẻ đẹp giàu có, trù phú và lung linh, thơ mộng.

Và khi màn đêm buông xuống, cái vẻ đẹp rực rỡ huy hoàng tráng lệ không còn mà thay vào đó là vẻ đẹp của sự giàu có, trù phú, lung linh, huyền ảo. Đêm về, đoàn thuyền hạ lưới giăng câu. Trăng lúc này đã lên cao, rọi xuống mặt biển, in hình trên mặt sóng. Gió thổi, sóng xô, trăng tan ra vỗ vào mạn thuyền gợi lên một cảnh tượng vô cùng đẹp đẽ. Trăng đem đến vẻ đẹp huyền ảo, lung linh cho biển cả. Và vầng trăng ấy dường như cũng đã đem đến chất thơ cho công việc vốn vất vả của những người dân chài lưới, đem đến chất trữ tình, lãng mạn cho bài thơ này.

Miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, của biển cả tác giả tiếp tục ca ngợi:

” Cá nhụ cá chim ….. nước Hạ Long

Đọc lời thơ ta dễ dàng nhận ra thủ pháp liệt kê được tác giả sử dụng. Nó khiến cho câu thơ giống như một lời ca ngợi về sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Lời thơ cho ta hình dung ra được hình ảnh rất nhiều loài cá đang tung tăng bơi lội nhưng đáng chú ý nhất là những chú cá song thân dài, trên thân có những đốm đen hồng. Giữa biển khơi trông chúng hệt như một đoàn rước đèn lộng lẫy. Miêu tả đàn cá song, Huy Cận cất tiếng gọi “em” thật tự nhiên, nhẹ nhàng và trìu mến. BPTT nhân hoá đã làm cho thiên nhiên trở nên sống động và gần gũi hơn với con người. Con người giờ đây không còn nhỏ bé, cô đơn trước trời rộng sông dài mà trở thành bạn của thiên nhiên vũ trụ. Có lẽ vì thế mà nhà thơ nghe được cả tiếng thở của biển đêm:

“Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Lại một lần nữa BPTT nhân hoá được tác giả sử dụng. Đêm về, tiếng gió thổi, tiếng sóng xô, tiếng cá đớp động mặt nước tất cả đã tạo nên nhịp thở của biển. Trăng sao thì in hình trên mặt nước, sóng xô, trăng sao như tan ra hoà vào biển cả làm sáng rực cả một vùng biển, vùng trời. Một cảnh tượng thật kì diệu. Huy Cận hẳn phải là một con người tinh tế lắm, có trí tưởng tượng bay bổng lắm mới có được những vần thơ thăng hoa như vậy.

c. Thiên nhiên trong “Đoàn thuyền đánh cá” còn rất nhân hậu, ân tình.

Trong mạch cảm xúc ca ngợi sự giàu có của biển, Huy Cận viết tiếp:

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Hai câu thơ thật giản dị! Một phép so sánh thôi cũng đủ để ta cảm nhận được trọn vẹn biển hiền hoà, bao dung, gần gũi ra sao. Biển không phải là thiên nhiên vô tri vô giác mà là bạn, là mẹ. Tình mẫu tử luôn là một tình cảm đẹp. So sánh biển với “lòng mẹ” có lẽ Huy Cận vừa muốn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên hồn hậu lại vừa tỏ lòng biết ơn tới biển cả hiền hòa, bao dung, Con người và thiên nhiên lúc này như hoà vào làm một gắn bó không rời. Câu thơ là tiếng lòng của nhà thơ và cũng chính là tiếng lòng của những người dân lao động, của những ngư dân chài lưới quanh năm gắn bó với biển khơi – một lời cảm tạ chân thành tha thiết

d. Khi bình minh lên, thiên nhiên lại mang một vẻ đẹp tươi sáng rực rỡ đầy hứa hẹn.

Sau một đêm đánh bắt cá với bao vất vả nhọc nhằn, đoàn thuyền trở về khi ” mặt trời đội biển nhô màu mới”. Thiên nhiên lúc này mang vẻ đẹp tươi sáng, rực rỡ, đấy hứa hẹn :

“Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Nếu ở những câu thơ mở đầu thiên nhiên là hình ảnh “mặt xuống biển” có ý soi sáng cho đoàn thuyền ra khơi thì đến đây, “mặt trời đội biển” phải chăng như muốn nâng đoàn thuyền khi về bến? Câu thơ làm cho toàn cảnh thiên nhiên sáng lên với một “màu mới”. Đó là màu của sức sống, của tương lai và hy vọng. Bài thơ khép lại với hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” nhưng lại mở ra một khung cảnh lung linh rực rỡ, một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy, ấm no. Thiên nhiên lúc này không chỉ là cảnh mà còn gợi lên trong lòng người đọc biết bao nhiêu cảm xúc. Đó là niềm vui, niềm tự hào về biển trời quê hương, là niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng

3. Đánh giá.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một bài thơ hay. Trong bài thơ ấy, thong qua các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, các BPTT độc đáo, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vừa mang vẻ đẹp rực rỡ, kì vĩ, tráng lệ vừa lung linh huyền ảo lại vừa tươi sáng vô ngần. Và đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy, ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tài năng quan sát, trí tưởng tượng bay bổng và hơn cả là tình yêu, niềm tự hào, sự trân trọng với biển trời quê hương. Sức lay động của bài thơ một phần được tạo nên từ đó.

Kết luận

Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.

Đề 8: Vẻ đẹp của con người lao động trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”

Mở bài

Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng cùa thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cẩt lên từ nhịp sống lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả.

Thân bài

1. Khái quát:

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh của nhà thơ Huy Cận. Bằng bút pháp tả thực kết hợp bút pháp lãng mạn, các hình ảnh đẹp, tráng lệ, bài thơ đã giúp ta nhận ra sự hoà hợp giữa thiên nhiên và con người lao động đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về quê hương, đất nước.

2. Vẻ đẹp của những con người lao động.

a. Họ là những con người có tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống

Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc, theo trình tự của một chuyến ra khơi. Khi hoàng hôn buông xuống, đoàn thuyền bắt đầu ra khơi rồi đánh cá trong đêm, đến khi trở về cũng là lúc bình minh ló rạng. Và trong suốt hành trình ấy ta nhận ra ở những người lao động, những ngư dân chài lưới là tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống, là niềm vui và tâm hồn lãng mạn.

+ Họ ra khơi, đánh bắt cá trên biển và cả khi trở về luôn có câu hát đi cùng. Câu hát đã hoà cùng với gió nâng cánh buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi rồi cũng câu hát ấy lại gọi cá vào lưới. Ta không rõ họ hát những gì, những bài hát cụ thể ra sao nhưng có thể chắc chắn một điều rằng mỗi lời ca tiếng hát ấy là một lời ngợi ca cuộc sống mới, ngợi ca vẻ đẹp và sự giàu có, trù phú của biển. Chính tiếng hát của họ đã góp thêm chút thi vị, lãng mạn cho công việc vốn cực nhọc vất vả vô cùng. Và đằng sau những âm điệu khỏe khoắn, hào hung ấy hẳn phải là một tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống, là niềm vui, niềm tự hào về cuộc sống mới về biển cả quê hương.

b. Họ luôn hăng say lao động, làm chủ thiên nhiên. Đoàn thuyền ra khơi chẳng khác nào một đoàn thám hiểm.

Không chỉ lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống, ở những người lao động mới ta còn nhận ra tinh thần lao động hăng say và tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển cả.Họ ra khơi đánh cá mà chẳng khác nào một đoàn thám hiểm đi tìm kiếm những vùng đất mới, chẳng khác nào một đội quân đang tổ chức đánh trận.

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

+ Lời thơ gợi cho ta thật nhiều liên tưởng thú vị. Đoàn thuyền ra khơi có gió làm bánh lái, trăng làm cánh buồm. Gió trăng đã nâng con thuyền lên một tầm cao mới với một tốc độ đặc biệt. Thuyền lướt nhanh, lướt cao trên từng con sóng, lúc này biển nước và mây trời như vào làm một. Con thuyền, con người vốn nhỏ bé trước thiên nhiên, biển cả nay trở lên lớn lao kì vĩ lạ thường. Ta còn nhớ trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận trước CMT8, lúc ấy con người đứng trước cảnh trời rộng sông dài thì thấy nhỏ bé cô đơn lắm. Nhìn đâu cũng thấy thấy những ảo não, u buồn. Nhưng ở bài thơ này, con người đã thực sự đứng ở tư thế làm chủ – làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước.

+ Ở hai câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá

” Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Công việc của những người dân chài giống như một cuộc đánh trận, một cuộc đấu với thiên nhiên bằng cả trí tuệ và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình. Nhịp thơ lúc này có vẻ nhanh hơn, điều đó giúp ta thấy được nhịp điệu khẩn trương trong lao động của những con người mới. Những ngư dân chài lưới có lúc như một nhà thám hiểm khám phá những vùng đất mới, có lúc lại như đang tổ chức đánh trận. Mật trận sản xuất lúc này cũng cam go chẳng kém mặt trận chiến đấu nơi chiến trường.

c. Họ sống nặng ân tình

Đối với những người dân chài lưới thì biển giống như cuộc đời của họ. Có khi thời gian đánh bắt trên biển còn nhiều hơn những ngày tháng ở nhà, Họ sống được là nhờ có biển. Hiểu được điều đó Huy Cận đã viết:

“Biển cho ta cá như long mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Chỉ với một phép so sánh, tác giả đã giúp ta nhận ra sự hiển hoà, bao dung gần gũi của biển. Biển không chỉ là bạn mà còn là mẹ “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Con người và biển cả lúc này như hoà vào làm một gắn bó không rời. Biển đã cung cấp cho ta biết bao tài nguyên, khoáng sản. Lòng biển bao la sâu thẳm như lòng mẹ nhân từ. Biển cho ta rất nhiều như bà mẹ nhân hậu, bao dung, đã nuôi lớn biết bao thế hệ trong âm thầm, trong lặng lẽ. Câu thơ chính là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là những lời cảm tạ của những người dân chài lưới với biển cả. Họ hiểu rằng biển đã mang lại cho họ cả cuộc đời. Cuộc đời ấy có thể lam lũ vất vả nhưng cũng có không ít những tin yêu. Lời thơ có sự đồng điệu với câu thơ của Tế Hanh trong bài thơ “Quê hương”

“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon than bạc trắng”

Bao giờ cũng vậy những người dân chài lưới, những con người lao động dù mộc mạc, chất phác, giản dị nhưng họ luôn sống nặng ân tình.

d. Hình ảnh người lao động hiện lên rõ nét hơn ở những khổ thơ cuối

Trong cả bài thơ này, hình ảnh những người lao động không được miêu tả cụ thể, ta chỉ thấy bong dáng của họ khi nhà thơ miêu tả cảnh kéo lưới lên

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sang

Ta kéo xoăn tay chum cá nặng”

Cách dùng từ của Huy Cận thật độc đáo. Chỉ với một chữ “kịp” tác giả đã diễn tả được đầy đủ cái không khí lao động khẩn trương hối hả để chạy đua với thời gian, với cuộc sống. Nó giúp ta liên tưởng đến cuộc chạy đua trong lao động sản xuất của những con người lao động để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và trong cuộc chạy đua ấy, hình ảnh người dân chài cũng hiện lên thật đẹp. Bằng bút pháp tả thực, những từ ngữ giàu giá trị gợi tả, câu thơ “Ta kéo… nặng” đã cho ta cảm nhận được vẻ đẹp khoẻ khắn, rắn rỏi, vạm vỡ của những người dân chài. Đó không chỉ là vẻ đẹp của sức mạnh cơ bắp mà còn là sức mạnh tinh thần, sức mạnh của ý chí, nghị lực và niềm tin

3. Đánh giá

Như vậy bằng các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, các biện pháp tu từ độc đáo, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của những con người lao động trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Họ là những người luôn lạc quan yêu đời, luôn hăng say lao động, sống ân nghĩa thuỷ chung cùng với sức mạnh tinh thần vô cùng mạnh mẽ. Và đằng sau những vần thơ ấy, ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu, niềm tự hào về cuộc sống mới và về những con người mới – những người lao động đang ra sức dựng xây chủ nghĩa xã hội. Sức lay động của bài thơ một phần được tạo nên từ đó.

Kết luận

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ngợi ca những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Công việc lao động đánh cá của ngư dân Quảng Ninh trên biển Hạ Long được miêu tả trong sự thống nhất hòa quyện với thiên nhiên trời biển, trăng sao bát ngát, kì vĩ và bay bổng. Cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ hòa hợp với cảm hứng lao động đã tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.

This post was last modified on 10/04/2024 20:48

Published by

Bài đăng mới nhất

Con số may mắn hôm nay 23/11/2024 theo năm sinh: Nhặt TIỀN lộc từ số hợp mệnh

Con số may mắn hôm nay 23/11/2024 theo năm sinh: Nhặt TIỀN từ con số…

1 giờ ago

Tử vi thứ 7 ngày 23/11/2024 của 12 con giáp: Thìn muộn phiền, Dậu có xung đột

Tử vi thứ bảy ngày 23/11/2024 của 12 con giáp: Tuổi Thìn chán nản, tuổi…

1 giờ ago

4 con giáp vận trình xuống dốc, cuối tuần này (23-24/11) làm gì cũng xui, nguy cơ thất bại

Vận may của 4 con giáp đang ngày càng xuống dốc. Cuối tuần này (23-24/11),…

5 giờ ago

Số cuối ngày sinh dự báo người GIÀU PHƯỚC, trường thọ khỏe mạnh, trung niên PHẤT lên mạnh mẽ

Con số cuối cùng trong ngày sinh dự đoán con người sẽ GIÀU CÓ, sống…

10 giờ ago

Cuối tuần này (23-24/11) cát tinh ban lộc, 4 con giáp may mắn ngập tràn, thành công ngoài mong đợi

Cuối tuần này (23-24/11), 4 con giáp sẽ gặp nhiều may mắn và thành công…

10 giờ ago

Tử vi hôm nay – Top 3 con giáp thịnh vượng nhất ngày 22/11/2024

Tử vi hôm nay – Top 3 con giáp thịnh vượng nhất ngày 22/11/2024

11 giờ ago