Nối tiếp Iliad, sử thi Odyssey gồm 12.110 câu thơ được chia thành 24 khúc ca. Nội dung trung tâm của tác phẩm nói đến hành trình trở về quê hương đầy khó khăn, thử thách của Uy-lít-xơ sau khi chiến thắng thành Troy.
Qua đó, nó gợi lên tình yêu quê hương, tình vợ chồng, cha con, tình bạn phi thường.
Ngoài ra, tác phẩm còn ngợi ca sự anh dũng, trí tuệ và nghị lực của con người với khát vọng chiến thắng thế giới, gắn liền với mơ ước về cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Giả dạng làm người hành khất, Uy-lít-xơ đã vào được trong ngôi nhà của mình, được Pê-nê-lốp cho phép ở lại để kể cho nàng nghe những câu chuyện về chồng nàng mà anh ta biết. Pê-nê-lốp tổ chức cuộc thi bắn cung chọn chồng dựa vào đó hai cha con Uy-lít-xơ trù tính cách thức tiêu diệt kẻ thù. Bọn cầu hôn không ai thực hiện được yêu cầu của cuộc thi. Uy-lít-xơ dưới bộ áo hành khất xin tham dự và đã thắng. Vớ cây cung trong tay, Uy-lít-xơ tiêu diệt những tên cầu hôn đầu sỏ, đánh đuổi chúng ra khỏi nhà, trừng phạt lũ đầy tớ phản chủ. Đoạn dưới đây kể tiếp màn vợ chồng đoàn viên…
(Nhũ mẫu Ơ-ri-clê lên gác gọi Pê-nê-lốp dậy, báo cho nàng biết Uy-lít-xơ chồng nàng đã trở về, đã trừng trị bọn cầu hôn. Nhưng Pê-nê-lốp vẫn không tin…)
– Già ơi, già hãy khoan hí hửng, reo cười. Già cũng biết, nếu chàng trở về thì mọi người trong nhà, nhất là tôi và con trai chúng tôi sinh ra kia sẽ sung sướng xiết bao! Nhưng câu chuyện già kể không hoàn toàn đúng sự thực. Đây là một vị thần đã giết bọn cầu hôn danh tiếng, một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhuốc nhơ của chúng. Vì chúng chẳng kiêng nể một ai trên cõi đời này, dù là dân đen hay người quyền quý, hễ gặp chúng là bất cứ ai cũng bị chúng khinh miệt. Vì sự bất công điên rồ của chúng nên chúng phải đền tội đấy thôi. Còn về phần Uy-lít-xơ thì ở nơi đất khách quê người chàng cũng đã hết hi vọng trở lại đất A-cai, chính chàng cũng đã chết rồi.
– Con ơi! Sao con dám hé răng nói vậy? Chồng con đang ở đây, ngay tại nhà này, mà con lại không tin, nói rằng người sẽ không bao giờ về nữa! Vậy để già nói cho con biết một dấu hiệu khác nhé, một dấu hiệu không sao cãi được: đó là cái sẹo do răng nanh trắng của một con lợn lòi húc người ngày xưa để lại. Khi gì rửa chân cho người, già chợt nhận ra cái sẹo đó. Già đã toan mách bảo con, nhưng người đưa tay bịt miệng già lại, cấm nói, vì người đang có trong đầu óc một ý nghĩ rất khôn. Vậy con cứ đi với già. Già đem tính mệnh ra đánh cuộc với con: nếu già lừa dối con thì con cứ đem giết già đi bằng cách nào tàn ác nhất.
– Già ơi! Dù già sáng suốt đến đâu, già cũng không sao hiểu thấu những ý định huyền bí của thần kinh bất tử. Nhưng thôi, gác chuyện đó lại. Bây giờ ta hãy xuống nhà với Tê-lê-mác để xem xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng.
Nói xong, nàng bước xuống lầu. Lòng nàng rất đỗi phân vân: nàng không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn? Khi vào đến nhà, bước qua ngưỡng cửa bằng đá, nàng đến ngồi trước mặt Uy-lít-xơ, dưới ánh lửa hồng, dựa vào bức tường đối diện, còn Uy-lít-xơ thì ngồi tựa vào một cái cột cao, mắt nhìn xuống đất, đợi xem bây giờ tận mắt trông thấy mình rồi, người vợ cao quý của mình sẽ nói gì với mình. Nhưng nàng vẫn ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ áo quần rách mướp.
– Mẹ ơi, mẹ thật tàn nhẫn, và lòng mẹ độc ác quá chừng! Sao mẹ lại ngồi xa cha con như thế, sao mẹ không đến bên cha, vồn vã hỏi han cha? Không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt hai mươi năm nay, trải qua bao nỗi gian lao, bây giờ trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng như vậy. Nhưng mẹ thì bao giờ lòng dạ cứng rắn hơn cả đá.
– Con ạ, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng, mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han, cũng không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được nhau một cách dễ dàng, vì cha và mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết.
Nghe nàng nói vậy, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại mỉm cười. Rồi người vội nói với Tê-lê-mác những lời có cánh như sau:
– Tê-lê-mác, con! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy. Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới, nên mẹ con khinh cha, chưa nói: “Đích thị là chàng rồi!”. Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xem nên xử trí thế nào cho ổn thỏa nhất. Nếu có ai giết chết một người trong xứ sở, chỉ một người thôi, và dù kẻ bị giết chẳng có ai báo thù cho nữa, thì người ấy cũng phải rời bỏ cha mẹ, đất nước, trốn đi. Huống hồ chúng ta đây, chúng ta đã hạ cả thành luỹ bảo vệ đô thị, giết các chàng trai của những gia đình quyền quý nhất; tình huống ấy, cha khuyên con nên suy nghĩ.
– Cha thân yêu, việc này xin cha để tuỳ cha định liệu, vì xưa nay cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp.Về phần chúng con, chúng con sẽ hết lòng hăng hái phù tá cha, và xin cha tin rằng chỉ nói trong phạm vi sức lực của con, con cũng không phải là người kém gan dạ.
(Uy-lít-xơ bảo mọi người đi tắm rửa, rồi mặc quần áo đẹp, ca múa cho người ngoài lầm tưởng trong nhà làm lễ cưới, dặn ai nấy giữ kín chuyện cho đến khi cha con lui về trang trại của La-éc-tơ rồi sẽ bàn tính sau, Uy-lít-xơ cũng đi tắm.)
Khi Uy-lít-xơ từ phòng tắm bước ra, trông đẹp như một vị thần. Người lại trở về chỗ cũ, ngồi đối diện với Pê-nê-lốp, trên chiếc ghế bành ban nãy, rồi nói với nàng:
– Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở. Thôi, già ơi! Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt đá.
– Khốn khổ! Tôi không coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu. Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, Ơ-ri-clê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường.
Nàng nói vậy để thử chồng, nhưng Uy-lít-xơ bỗng giật mình nói với người vợ thận trọng:
– Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác cậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Nếu thần linh muốn xê dịch thì dễ thôi, nhưng người trần dù đang sức thanh niên cũng khó lòng lay chuyển được nó. Đây là một chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai. Nguyên trong sân nhà có một cây ô-liu lá dài; nó mọc lên, khoẻ, xanh tốt và to như cái cột. Tôi kẻ vạch gian phòng của vợ chồng mình quanh cây ô-liu ấy, rồi xây lên với đá tảng đặt khít nhau. Tôi lợp kĩ gian phòng, rồi lắp những cánh cửa bằng gỗ liền, đóng rất chắc. Sau đó tôi chặt hết cành lá của cây ô-liu lá dài, cố đẽo thân cây từ gốc cho thật vuông vắn rồi nảy đường mực, làm thành một cái chân giường và lấy khoan khoan lỗ khắp xung quanh. Tôi bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giường đó, lấy vàng bạc và ngà nạm vào trang trí, và cuối cùng tôi căng lên mặt giường một tấm da màu đỏ rất đẹp. Đó là điểm đặc biệt mà tôi vừa nói với nàng. Nhưng nàng ơi, tôi muốn biết cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ, hay đã có người chặt gốc cây ô-liu mà dời nó đi nơi khác.
Người nói vậy, và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay, nàng thấy Uy-lít-xơ tả đúng mười mươi sự thật. Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng và nói:
– Uy-lít-xơ! Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi! Thần linh đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì người ghen ghét ta, không muốn cho ta được sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác… Giờ đây, chàng đã đưa ra những chứng cứ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ác-tô-rít, một người thị tì của cha thiếp cho khi thiếp về đây, và sau đó giữ cửa gian phòng vách tường kiên cố của chúng ta. Vì vậy chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.
Nàng nói vậy, khiến Uy-lít-xơ càng thêm muốn khóc. Người ôm lấy người vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình mà khóc dầm dề.
Dịu hiền thay mặt đất, khi nó hiện lên trước mắt những người đi biển bị Pô-dê-i-đông đánh tan thuyền trong sóng cả gió to, họ bơi, nhưng rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xoá mà vào được đến bờ; mình đầy bọt nước, những người sống sót mừng rỡ bước lên đất liền mong đợi; Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng, nàng sung sướng xiết bao, nàng nhìn chồng không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời.
2.4 Sử thi Nga
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XVII, ở vùng phía bắc của Nga đã xuất hiện một lượng lớn các tác phẩm sử thi dân gian. Chúng được gọi là bylina tức điều xảy ra trong quá khứ hay starinabylina mang nghĩa là chuyện thời xưa. Trong đó nội, dung chính của đề tài viết về anh hùng hoặc một tình huống nào đặc biệt nào đó trong lịch sử nước này. Chẳng hạn, những nhân vật thường xuất hiện trong tác phẩm như Svyatogor, Dunai, Volga, Potoka là hiện thân của các vị thần tự nhiên hay Dobrynia Nikitich – anh hùng diệt rắn, tráng sĩ Aliosha Popovich (đại diện cho các nhân vật anh hùng),…
Mặc khác, nhiều chứng cứ cho thấy các tác phẩm sử thi trên liên quan đến thời kỳ Kiev – gắn với đời quốc vương Vladimir. Thế nhưng đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất được nguồn gốc cụ thể của nó. Một số ít người bày tỏ bylina (sử thi) xuất hiện từ thời bộ lạc Đông Slav, trong khi đó phần lớn cho rằng nó được hình thành từ thế kỷ X – XI gắn với lịch sử của Kiev.
Về tác giả, theo V.F. Miller, sử thi ban đầu do các ca sĩ trong cung đình của vương quốc Nga sáng tác, sau đó được phổ biến và hoàn thiện bởi các nghệ sĩ lang thang biểu diễn múa, hát,…Phong cách ngôn ngữ của tác phẩm là thể thơ tự do có nhịp điệu đặc biệt nhưng không có vần, độ dài thay đổi tuỳ bài và độ dài ở khoảng 300 đến 400 câu thơ.
Xem thêm: Chiến công diệt tên tướng cướp Họa Mi của tráng sĩ Ilya Muromets (sử thi Nga)
Hành trình đầu tiên của Ilya Moromets:
Ilya và tên Họa Mi-Tướng cướp
Chẳng phải cây sồi xanh nghiêng xuống đất
Cũng chẳng phải những trang giấy trải ra
Mà là đứa con trai quỳ phục trước cha
Cầu xin cha ban cho lời chúc phúc:
“Hãy ban cho con lời chúc phúc,
Ôi thưa cha, cha hết mực yêu thương!
Để cho con cất bước lên đường
Đến Kiev vinh quang, diễm lệ
Kinh đô nơi quốc vương Vladimir ngự trị
Với Người con thể hiện lòng trung
Phục vụ Người với tất cả tấm lòng
Bảo vệ đức tin Thiên Chúa giáo”
Ivan Timofeevich lão nông bèn bảo:
“Cha chúc phúc cho việc tốt con làm
Còn việc xấu thì cha phải khuyên can.
Con ra đi, dầu đường to, lối nhỏ
Lời của cha thì con hãy nhớ
Với người Tatar điều ác chớ đụng tay
Còn nông dân trên thửa ruộng cày
Con nhớ không bao giờ được giết”.
Ilya Muromets cúi chào cha sát đất
Rồi ngồi lên chú tuấn mã của mình
Phóng như bay ra đồng rộng mông mênh.
Chàng thúc mạnh hai bên sườn chú ngựa
Rách cả da, lòi cả thịt đen:
Chú ngựa hung hăng nổi khùng lên
Bèn phóng mình bật khỏi mặt đất
Nhảy cao hơn ngọn cây cao ngất
Suýt chạm tới tận những đám mây.
Ngựa và người phóng đi như bay
Mười lăm dặm nhảy trong một bước
Bước nhảy thứ hai, hiện ra giếng nước
Một cây sồi xanh mọc kề bên
Chàng chặt cây, nhà thờ nhỏ dựng lên
Trên nhà thờ tên của mình chàng ký:
“Từng qua đây một người tráng sĩ
Ilya Muramets oai hùng, con của Ivan”
Bước nhảy thứ ba, thành Chernigov ngay gần
Trước thành quân đông không kể xiết
Ba hoàng tử oai phong lẫm liệt
Mỗi người nắm giữ bốn vạn binh
Tim anh hùng hừng hực trào dâng
Nóng hơn lửa, nóng hơn băng đang cháy.
Ilya Muromets bèn cất lời như vậy
Với đạo quân đang đứng đằng kia:
“Trái ý cha ta chẳng mong gì
Cũng chẳng muốn sai lời người dạy bảo”.
Chàng bèn nắm trong tay ngọn giáo
Hiên ngang dạo bước giữa đoàn quân
Quay bên kia chàng tạo những quảng trường
Quay bên này chàng vạch ra đường phố
Xẻ đường đến trước ba hoàng tử,
Ilya Muromets cất lời:
“Hỡi ba hoàng tử của ta ơi!
Nên chăng cả ba ngươi ta bắt
Làm tù binh, hay đầu kia ta cắt?
Nếu bắt các ngươi làm tù binh,
Xem thêm :
Ta mở đường, dân mang bánh hoan nghênh
Còn đầu kia nếu ta đem cắt hết
Thì nòi giống các quốc vương tuyệt diệt .
Vậy hãy về nhà, loan tin khắp mọi nơi
Rằng đất Nga chẳng phải chỗ không người
Bởi đất Nga linh thiêng đã có
Những tráng sĩ oai hùng, uy vũ.”
Tướng thành Chernigov trông thấy chàng:
“Kìa sứ giả Chúa gửi đến cho ta!
Quân thù kia chàng quét đi sạch bóng
Thành Chernigov từ nay giải phóng.”
Rồi quay sang với các vương, quan
Vị tướng thành bèn ra lệnh rằng:
“Hãy ra gọi chàng trai trẻ tuổi
Đến chỗ ta ăn bánh mì và muối”.
Các vương, quan nghe lệnh tức thì,
Đến gặp tráng sĩ Muromets Ilya
“Hỡi chàng trai can trường, mạnh mẽ!
Chàng tên chi, tên chàng là gì thế?”
“Tên thân mật, Ileika giản đơn
Còn trang trọng Ilya con của Ivan”
Nghe vậy, các vương, quan bèn tiếp:
“Hỡi chàng, Ilya Muromets
Hãy đến với tướng của chúng tôi
Muối, bánh mì ông ấy chào mời.”
“Tướng các người ta không đi đến
Muối, bánh mì ta không muốn nếm
Hãy chỉ cho ta biết con đường
Thẳng tới kinh đô Kiev vinh quang”.
“Hỡi chàng, Ilya Muromets!
Con đường thẳng tới kinh đô Kiev
Chẳng dễ đâu, rừng Bryn chắn lối qua
Thêm con sông Samorodina
Chảy vắt ngang khó lòng vượt được.
Lại có tên Họa Mi – tướng cướp
Chiếm cứ trên hai mươi bảy cây sồi
Ba chục năm hắn ở đó ngồi
Chẳng người, ngựa nào qua được hết”.
Ilya nghiêng mình chào từ biệt
Rồi vượt qua khu rừng Bryn
Họa Mi nghe tiếng vó ngựa rung
Bèn cất giọng hót vang cảnh báo
Chú tuấn mã sẩy chân lảo đảo.
Ilya bèn nói với ngựa thân thương:
“Ôi tuấn mã, ơi chú ngựa can trường
Lẽ nào rừng tối mi chưa vượt
Tiếng chim hót mi chưa được nghe qua?”
Rồi Ilya bèn rút tên ra
Nhằm Họa Mi giương cung nhắm bắn
Phát tên đầu đường bay quá ngắn
Phát thứ hai lại phóng quá đà
Và rồi chàng bắn phát thứ ba
Trúng mắt phải tên Họa Mi- tướng cướp
Khiến hắn rơi khỏi hai bảy cây sồi
Chàng buộc hắn sau yên cương chàng ngồi
Rồi thẳng tiến tới kinh đô Kiev.
“Hỡi chàng, Ilya Muromets,
Họa Mi – tướng cướp nói với chàng,
Chàng đi đâu mà phải vội vàng
Hãy về nhà của tôi làm khách”
Con gái nhỏ của Họa Mi- tướng cướp
Trông thấy chàng bèn vội báo tin:
“Hãy trông kìa cha của chúng mình
Bắt thằng chột về, cột sau yên ngựa”.
Con gái lớn vội vàng ra ngó:
“Đồ nhãi ranh ngu ngốc làm sao!
Đó là chàng tuấn kiệt, anh hào
Bắt cha ta về, cột sau yên ngựa”
“Đừng bắng nhắng, mấy đứa con gái nhỏ,
Họa Mi – tướng cướp nói với con,
Đừng chọc tức chàng trai trẻ oai hùng”
Ilya hỏi tên Họa Mi tướng cướp:
“Các con ngươi sao giống nhau như đúc?”
Họa Mi bèn đáp lời Ilya:
“Sinh con trai, cho lấy gái trong nhà
Còn sinh gái, gả cho con trai làm thê thiếp
Để dòng giống Họa Mi đời đời nối tiếp”
Lời Họa Mi chọc giận chàng Ilya
Cây kiếm sắc ngọt chàng rút ra
Cả đàn con của Họa Mi chém hết.
Thế rồi chàng Ilya Muromets
Tiến đến thành Kiev vinh quang
Chàng cất lên tiếng gọi rền vang:
“Ơi quốc vương anh minh người hỡi,
Vladimir, cha của muôn dân
Ngài có cần chăng đến chúng thần
Những tráng sĩ oai hùng, uy vũ
Kẻ sẽ mang cho ngài vinh quang, danh dự
Giúp giữ thành Kiev quét sạch bọn Tatar?”
Quốc vương Vladimir bèn đáp lời Ilya:
“Sao không cần các ngươi cho được?
Ta kiếm tìm các ngươi khắp nước,
Mỗi người tới, ngựa tốt ta liền ban”
Ilya Muramets bèn tâu với quốc vương:
“Thần đã có đây rồi con tuấn mã
Buổi sáng sớm thần cùng cha dùng bữa
Buổi trưa thần muốn được ở cùng ngài,
Nhưng gặp ba chướng ngại trên đường dài
Giải phóng thành Chernigov trước nhất,
Hai là sông Smorodina phải bắc
Cây cầu dài mười lăm dặm ngang qua,
Rồi bắt Họa Mi tướng cướp là ba”.
Quốc vương Vladimir bèn nói:
“Ôi tướng cướp Họa Mi ngươi hỡi!
Hãy đến ngay điện đá trắng chỗ ta”
Họa Mi tướng cướp đáp lời vua:
“Thần không phải kẻ theo hầu bệ hạ
Lệnh của ngài thần không tuân theo nữa.
Giờ thần phải hầu hạ ân cần
Ilya Muromets chủ nhân”
Vladimir nói: “Ôi Muromets,
Con trai Ivan, Ilya Muromets!
Hãy bảo Họa Mi vào điện của ta”
Ilya Muromets bèn ban lệnh ra
Họa Mi nghe, điện của vua liền tới.
Quốc vương Vladimir lại nói:
“Hỡi Muromets, con trai của Ivan
Hãy lệnh cho hắn cất giọng hót vang”.
Và Ilya Muromets bèn nói:
“Cha chúng thần, quốc vương Vladimir hỡi,
Xin ngài đừng tức giận, nếu như
Một tay thần cắp ngài khư khư
Còn công chúa dưới tay kia thần dấu”
Rồi quay sang Họa Mi chàng bảo:
“Hỡi Họa Mi, hãy hót nửa hơi thôi”
Nhưng Họa Mi lại hót hết cả hơi,
Mái cung điện bay xuống ô cửa sổ
Bản lề sắt gãy tung tất cả
Các tráng sĩ mạnh mẽ oai hùng
Cùng vương, quan đều ngã lăn đùng
Chỉ riêng mình Ilya đứng đó
Buông tay thả quốc vương cùng công chúa
Quốc vương Vladimir cất lời:
“Hay lắm, tướng cướp Họa Mi ơi!
Làm sao Ilya tóm mi được vậy?”
Lời quốc vương Họa Mi bèn đáp lại:
“Thưa hôm đó lễ tên thánh con thần
Thần túy lúy chẳng đứng nổi trên chân”.
Nghe nói vậy, Ilya nổi đóa
Tóm lấy đầu tên Họa Mi dối trá
Lôi hắn ra tận ngoài phía sân chầu
Ném hắn bay qua cả ngọn cây cao
Suýt chạm tới đám mây trên trời thẳm
Xem thêm : Giai cấp công nhân các nước đang phát triển trong giai đoạn hiện nay – Tạp chí Cộng sản
Rồi quẳng xuống tận đất đen ướt ẩm
Cứ như vậy, tóm lấy hắn nhiều lần
Họa Mi kia xương cốt gãy nát tan.
Rồi mọi người cùng quốc vương ăn tối.
Quốc vương Vladimir mới nói:
“Hỡi Ilya Muromets, con của Ivan!
Ta dành cho ngươi ba chỗ trên bàn
Chỗ thứ nhất bên ta ngồi liền cạnh
Chỗ thứ hai phía trước ta đối diện
Chỗ thứ ba tùy ý muốn của ngươi”.
Ilya đi quanh chào tất cả mọi người
Bắt tay các vương quan quyền thế
Các tráng sĩ oai phong mạnh mẽ
Rồi ngồi xuống đối diện nhà vua
Aliosha Popovich thấy vậy chẳng ưa
Bèn vớ lấy con dao bằng thép
Ném vào người Ilya Muromets
Lưỡi dao bay, Ilya bắt được ngay
Cắm nó xuống bàn gỗ sồi trước mặt.
Xem thêm:
Sự khác biệt của nền văn minh phương Đông và phương Tây? Điển tích điển cố: Thủ pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong văn học Phong trào văn hóa Phục Hưng có ý nghĩa gì với nền văn minh phương Tây
3. Khám phá 2 tác phẩm sử thi Việt Nam hay
Sử thi Việt Nam mang đậm nét văn hoá, lịch sử của người dân tộc ít người. Thông qua hình thức kể chuyện sử thi của người Tây Nguyên bạn sẽ dễ dàng thấy được điều đó.
3.1 Sử thi Đăm Săn
Người Ê đê kể Khan (sử thi) bằng lối hát kể, hát lời kết hợp với nét diễn qua gương mặt, hành động để mô tả lại nhân vật chính. Một trong các tác phẩm nổi bật của họ chính là sử thi anh hùng Đăm Săn.
Sử thi Đăm Săn có tên gọi đầy đủ là “Bài ca chàng Đăm Săn”. Nội dung chính của nó xoay quanh người anh hùng Đăm Săn – người có công thuần phục voi dữ, giúp buôn làng giàu mạnh,…
Sử thi Đăm Săn mang đậm những nét truyền thống của người dân tộc Ê – đê, ca ngợi sự tài trí, thông minh, gan gốc của người dân. Qua đó thể hiện khát vọng sống tự do, phóng khoáng và niềm khát vọng chinh phục thiên nhiên của con người.
Xem thêm: Đăm Săn đi bắt nữ thần mặt trời về làm vợ
Đây là phần sau khi hai vợ Đăm Săn sống lại.
Đăm Săn nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở không thêm một chiều một sáng. Sau đó
Đăm Săn: Ơ Hơ Nhị, ơ Hơ Bhị! Đừng mong đợi tôi làm gì nhé.
Hơ Nhị: Ơ nuê, ơ nuê, nuê lại đi đâu nữa?
Đăm Săn: Tôi đi vào núi thẳm rừng sâu, tôi đi vào rừng âm u bịt bùng. Đêm tôi nghỉ, ngày tôi lại đi.
Hơ Nhị: Ơ nuê, nuê đi làm gì nữa? Nếu nuê cần chiêng thì nhà đã có chiêng. Nếu nuê cần chạ thì nhà đã có chạ rồi cơ mà.
Đăm Săn: Tôi đi nào phải để kiếm chiêng, kiếm chạ. Tôi chỉ đi chơi thôi, đi chơi không có việc gì.
Hơ Nhị: Ơ nuê, ơ nuê, nuê đã có chiêng đống voi đàn, bạn bè đông như nêm như xếp. Ai cũng nói nuê đã làm một tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn nhiêu, vai mang nải hoa. Chiêng hàng trăm đã mua, knă hàng ngàn đã sắm, tôi trai tớ gái, voi đực voi cái đều đã có cả. Nồi bung đầy rừng, nồi bẩy đầy đầm; lợn dê đầy ắp gầm sàn, nuê cũng có. Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nói nuê là một dũng tướng, chắc chết mười mươi cũng không lùi bước rồi cơ mà.
Đăm Săn: Tôi đi đây là để bắt nữ Thần mặt trời. Có bắt được nàng tôi mới thật sự trở thành một tù trưởng giàu có, chiêng lắm chạ nhiều, mới thực sự đâu cũng phải khuất phục tôi. Từ người Radeh bên bờ sông, cho đến người Mnông ở dưới thấp, không còn một ai dám trái lời tôi. Tôi đi đến đâu ở đó tre le phải nghiêng mình, lồ ô phải cúi rạp. Tôi dậm chân là núi phải vỡ, sông phải tan. Không một tù trưởng nào sánh tày tôi nữa. Tôi đi làm gì ư? Tôi nghe danh vang đến thần tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nói Nữ Thần Mặt Trời là một cô gái xinh đẹp, đôi bắp chân nàng tròn trặn, váy nàng mặc tuyệt vời là đẹp. Vì vậy các cô đừng mong đợi tôi làm gì. Mười ngày tôi sẽ ngủ lại, sáu đêm tôi sẽ nằm lại dọc đường. Tôi sẽ đi hết tháng hết năm.
Thế là Đăm Săn ra đi. Chàng cưỡi một ngựa đực, mặc một áo blak rằn. Gươm giáo tuốt trần san sát bên người. Chàng Đăm Săn đi bắt nữ Thần Mặt Trời như vậy đó.
Tăng Măng: ơ anh, ơ anh, anh đi việc gì vậy?
Đăm Săn: Nào có việc gì đâu chú em. Đói rau tôi ghé xin nghỉ. Đói cơm tôi ghé xin ăn. Khát rượu tôi ghé xin uống. Thiếu bồ kết tôi ghé xin gội đầu. Thèm thịt bò thịt trâu tôi ghé xin ăn đó thôi.
Tăng Măng đi nấu cơm, đốt gà, đem rượu ra rồi hỏi chuyện Đăm Săn đi có việc gì.
Tăng Măng: Ơ anh, anh đi có việc gì vậy? Việc gấp lắm phải không anh?
Đăm Săn: Có việc gì gấp đâu chú em. Tôi muốn đi bắt nữ Thần Mặt Trời thôi. Vậy chú có biết đâu là rừng người ta đã vạch đường, đâu là lối vẫn dẫn
Người ta đi tới bãi thả trâu bò của nữ Thần Mặt Trời không? Chú biết chứ?
Tăng Măng: Ôi chao! Anh ơi, tôi quả là thằng đàn ông không biết rừng, là con đàn bà không biết đường, là con voi con tê giác không biết đâu là đường mình vẫn đi nữa, anh ạ.
Đăm Săn: Tôi hỏi chú, đinh ninh rằng chú biết, vì chú ở bìa rừng cuối xóm nên chú rõ đông tây. Đi, chú, chú đi với tôi chú nhé! Chú hãy làm con chim ngói dẫn đường, hãy làm con chim cút dẫn lối, tiễn chân tôi cho tận đến bãi thả trâu bò của nữ Thần Mặt Trời. Chú hãy đi cùng tôi! Vì tình anh em, chú hãy đi cùng tôi!
Hai người ra đi. Mười ngày họ ngủ lại. Sáu đêm họ nằm lại dọc đường. Họ đi suốt tháng suốt năm, lúc nghe sông suối rì rào, lúc nghe biển cả gào thét. Người cười ngựa đực, người cưỡi ngựa cái, ngựa thở hổn hà hổn hển.
Họ đến làng Dam Par Kvây. Bọn đàn ông con trai trong làng chạy ra tận bến nước để xem, còn bọn đàn bà con gái thì đứng nhìn từ các sàn sân. Ai ai cũng đã từng nghe đồn Đăm Săn là một tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn nhiễu vai mang nải hoa.
Đăm Săn đến bãi ven làng rồi đến nhà Dam Par Kvây. Người trong nhà chạy xuống, kẻ giữ ngựa tháo yên, người đưa lời thăm hỏi. Chồm lên hai lần, chàng leo hết cầu thang. Chàng dậm chân lên sàn sân, hai làn sàn sân làm như vỗ cánh, bảy lần hàng cột nhà chao qua chao lại từ đông sang tây. Chàng dắt xagac lên mái nhà rồi ngồi xuống, trông nghênh ngang như con rắn trong hàng, ngang ngang như con cọp trong đầm, như con tê giác trong thung. Chàng nói nói cười cười, tiếng oang oang như sấm gầm sét dậy. Khắp các tù trưởng không một ai như chàng Đăm Săn.
Dam Par Kvây: Ơ các con, đem gối ra cho yiêng của ta nào. Đem chiếu đem chăn ra cho yiêng của ta nào!
Tôi tớ đem trải dưới một chiếu trắng, trải lên trên một chiếu đỏ làm chỗ ngồi cho nhà tù trưởng. Rồi họ đem ra thuốc sợi cả hòm đồng, thuốc lá cả sọt đại, trầu vỏ cả gùi to. Không còn sợ thiếu thuốc, thiếu trầu cho Đăm Săn ăn, hút. Họ đốt một gà mái ấp, giết một gà mái đẻ, giã gạo trắng như hoa êpang, sáng như ánh mặt trời, nấu cơm mời khách. Họ đi lấy rượu. Đem ra một ché tuk da lươn, một ché êbah Mnông, trên vẽ hoa kơ ŭ, dưới lượn hoa văn, tai ché hình mỏ vẹt xâu lỗ. Đó là những cái ché ngã giá phải ba voi. Ai đi lấy nước cứ đi lấy nước. Ai đánh chiêng cứ đánh chiêng, ai cắm cần cứ cắm cần. Cần cắm rồi người ta mời Đăm Săn ngồi vào uống. Vừa uống vừa nói chuyện
Dăm Par Kvây: Ơ yiêng, rượu tôi đã cột, gà tôi đã đốt, cơm tôi đã dọn trong mâm đồng chậu thau, xin mời yiêng đến ăn. Xin hỏi yiêng đi có việc gì? Phải chăng đã có kẻ đến đánh yiêng tại nhà, vây yiêng tại làng, bắt hết trai gái làng yiêng đi rồi sao?
Đăm Săn: Không phải thế đâu yiêng ơi. Tôi đi đây chẳng vì chuyện này, cũng không vì việc nọ. Tôi đến rủ yiêng, muốn cùng yiêng mặt giáp mặt bàn xem chúng ta đi bắt nữ Thần Mặt Trời có được hay không?
Dam Par Kvây: Ấy chết yiêng ơi. Rừng này nhiều cọp, đường này nhiều rắn. Không ai vào bắt nữ Thần Mặt Trời được đâu. Đường đi hái cà người ta trồng chông lớn. Đường đi hái ớt người ta trồng chông nhỏ. Người lớn đi chết đằng người lớn, nhà giàu đi chết đằng nhà giàu. Dũng tướng đi chết đằng dũng tướng.
Đăm Săn: Người dũng tướng chắc chết mười mươi vẫn không lùi bước, há cũng không vào đó được sao? (Ông Du, ông Diê nghe được liền quất cho Đăm Săn một roi vào người) Yiêng không cho tôi đi tôi cũng mặc. Tôi đã mang theo đây các thứ ngải đã từng giúp ông chúng tôi chiến thắng, những ngải cho sức mạnh, chém tê giác dưới vực, giết hùm beo trên rừng. Để xem tê giác, hùm beo có chết dưới mũi giáo lưỡi gươm của Đăm Săn này không? Dù yiêng có bảo đường đi lắm rết nhiều bọ cạp, núi rừng đầy tê giác, hùm beo, chưa từng có ai đi vào đó, tôi cũng không nghe yiêng đâu.
Dam Par Kvây: Ối chao! Chết thật đó yiêng ơi! Nước thì nhiều đỉa, rừng thì nhiều vắt, người ta chưa hề đem nhau đi vào đó bao giờ. Ven rừng đầy xương người. Trong rừng đầy xương bò xương trâu. Biết bao tù trưởng nhà giàu, biết bao dũng tướng anh hùng đã bỏ mạng nơi đây. Rừng Đen đất nhão là nơi đã chôn vùi nhiều tù trưởng nhà giàu. Tôi cột yiêng bằng thừng. Tôi trói yiêng bằng dây, Tôi không cho yiêng đi vào đấy đâu. Tôi xin cúng cầu phúc cho yiêng một lợn, tôi xin tiễn chân yiêng một trâu, tôi không cho yiêng đi vào rừng thiêng của nhà Trời đâu. Ở dấy, chông lớn nhiều như lông nhím, chông nhỏ nhiều như lông chó. Con sóc nhảy vào thân nó cũng khó mà vẹn toàn nữa là.
Đăm Săn: Mặc! Yiêng cứ để tôi làm bàn trang, tôi san đường tôi đi. Gặp cọp tôi sẽ giết cọp. Gặp tê giác tôi sẽ giết tê giác.
Dam Par Kvây: Giữ yiêng, yiêng không ở. Cầm yiêng, yiêng không dừng. Vậy yiêng định đốt đuốc ra đi trong đêm này ư?
Đăm Săn: Khắp vùng Êđê trên cao, Mnông dưới thấp, khắp tây đông, thử hỏi còn ai dám chống lại Đăm Săn này. Chống lại người tù trưởng giàu mạnh đầu đội khăn nhiều vai mang nải hoa này? Tôi không sợ đâu.
Dam Par Kvây: Cột không đừng, giữ không ở, đốt đuốc ra đi giữa canh khuya. Yiêng hãy coi chừng kẻo rơi vào rừng cỏ cằn đất nhão. Rừng bà Sun Y Rít đó yiêng ơi.
Đến đây Dam Par Kvây quay gót trở về. Trời đã nửa đêm gà đã từ từ gáy.
Dam Par Kvây: Ơ Yiêng, ơ yiêng. Trời đã gần sáng, mặt trời đã ló lên rồi, yiêng hãy thúc ngựa chạy nhanh giữa lúc trời còn tối, đất còn cứng. Có ánh mặt trời chiếu xuống là đất sẽ nhão ra. Rừng bà Sun Y Rit sẽ bắt đầu động đấy.
Thế là Đăm Săn ra đi. Chàng đi hết rừng rậm đến núi xanh, cỏ tranh xé tay, gai mây đâm chân, không màng ăn uống. Chàng đi, đi mãi, rừng núi quạnh hiu, vắng như không, không như vắng. Nhưng rồi chàng cũng đến được bãi thả trâu bò, rồi bãi thả diều làng ông Du, ông Diê. Chàng thấy hầu như có bóng đàn ông một người, đàn bà một người. Sau đó là cảnh người đi lại như trong sương mù. Chàng liền đến bờ rào làng xem, thì thấy dưới giăng dây đồng, trên giăng dây sắt. Cảnh làng người anh giữ mặt trời, người em giữ mặt trăng quả là đẹp thật. Chỗ anh em họ ở là một cánh núi ngăn một dòng nước đục chảy cho đến nơi đất giáp với trời. Chàng đi đến nhà cô gái không chồng, nàng H’Kung của chàng Y Du. Nàng thì đã vào ở giữa mặt trăng, còn chàng thì đã vào ở giữ mặt trời. Ở đây sấm nổ ầm ầm. Mưa đổ ào ào, tiếng vó ngựa ngày đêm nghe rầm rập. Từ đây Đăm Săn đứng ngắm ngôi nhà của nữ Thần Mặt Trời. Cầu thang trông như cái cầu vồng. Cối giã gạo bằng vàng, chày cũng bằng vàng. Chày của tù trưởng giàu có này giã gạo trông cứ lấp la lấp lánh.
Đăm Săn xuống ngựa tháo yên. Khi chàng nhoài lên cầu thang thì trong nhà người ta đã nghe. Khi chàng dậm chân bước trên sàn hiên thì trong nhà người ta đã thấy. Chàng vào nhà. Toà nhà dài dằng dặc, voi vây chặt sàn sân, chiêng xếp đầy nhà ngoài, Knă chất đầy nhà trong. Tôi trai tớ gái như con ong đi lấy nước, như vò vẽ đi chuyển hoa. Các xà ngang xà dọc đều dát vàng. Khắp các nhà giàu có không thấy đâu có một ngôi nhà như vậy cả.
Người đi ra đi vào nhà trong nhà ngoài đưa mắt nhìn chàng, thấy chàng oai như một vị thần. Tiếng xì xào ca ngợi chàng đã vọng tới tai nữ thần Mặt Trời.
Nữ Thần: Ơ các con, ơ các con, khách nào ở ngoài ấy?
Người hầu: Thưa bà, chúng con không được quen. Khách này mặc một áo lụa đẹp, khoác ngoài một áo chiến cũng thật là đẹp. Lông chân như chải, lông đùi như chuốt. Tiếng nghe như chong chóng gõ mõ. Khắp các dân làng không có một ai như khách cả.
Nữ Thần bỏ váy cũ mặc váy mới. Chưa hài lòng với váy này nàng lấy váy khác. Nàng mặc một váy ánh như sét, loáng như chớp. Mái tóc nàng vén bên tai trông thật là đẹp. Nàng từ trong buồng đi ra, cửa buồng liền bừng sáng. Nàng đi trông như diều bay ó liệng, như nước lững lờ trôi cũng không bằng. Lỡ chân hụt bước chăng? Nàng liền tần ngần đứng lại hay ngồi xuống không một ai giống như nàng cả. Tiếng nàng lanh lảnh, người chưa tới mà tiếng đã vẳng lại. Thật không thấy có một ai như nàng cả. Trước mặt Đăm Săn là một cô gái thân hình như cái nụ hoa, cổ như cổ công. Nàng rõ ràng là con của thần Đất thần Trời rồi.
Nữ Thần: Hỡi người con của trần thế, người muốn gì?
Đăm Săn: Vâng, tôi đã đến đây, tôi muốn có người nấu cơm canh tôi ăn, dệt khố áo tôi mặc.
Nữ Thần: Thế phải chăng người còn là lưỡi dao chưa tra cán? Còn là cái chốt chưa có lỗ cài? Là gái còn ở không, trai còn ở rỗi?
Đăm Săn: Tôi là lưỡi dao đã vướng cán, là lưỡi giáo đã có tay cầm. Dưới trần gian trai gái nào mà không có đôi có lứa.
Nữ Thần: Thế sao bây giờ đằng lưng người còn ưng, đằng bụng người còn nói nói cười cười với người khác? Người nghĩ gì vậy?
Đăm Săn: Tôi muốn có vợ lẽ thứ hai, muốn cả ba vợ tôi đều là những nàng tiên xinh đẹp. Tôi muốn đem nàng xuống trần làm juê, làm êngai, làm chị làm em với Hơ Nhị, Hơ Bhị.
Nữ Thần: Sao ta lại đi? Ông Trời đã định quê hương đất tổ của Mặt Trời, Mặt Trăng là nơi cuối đất chân trời này rồi cơ mà?
Đăm Săn: Nàng dù không đi thì tôi cũng đã rẽ đất đến đầu gối, lội bùn đến ngang hông, đem đất đem bùn đến nhà nàng rồi.
Nữ Thần: Nhưng nếu ta đi thì lợn dưới gà trên, cọp tê giác ngựa trâu sẽ chết hết. Chết cả người Kur, người Lào vì hết đất làm rẫy. Chết cả người Êđê Êga vì không còn nước uống. Chết cả gầm ghì cu xanh vì không còn trái ăn. Nếu ta đi, cây trong rừng sẽ tuyệt diệt, cây trên rú sẽ chết khô, lau lách sẽ ngừng đâm chồi, cỏ cây sẽ tàn lụi, đất đai sẽ nứt nẻ, sông suối sẽ cạn khô. Thôi, người hãy đi lấy gùi nước về đi! ta sắp ra đi đây.
Đăm Săn: Tôi không về! Với cây xagac phát rẫy này, tôi đã rạch rừng tôi đi. Tôi đã giết tê giác trong thung, giết cọp beo trên núi, giết kên kên quạ dữ trên cây, chém ma thiêng quỷ ác trên đường đi. Tôi thương nàng da diết. Lòng dạ tôi không nguôi, vì vậy tôi đã đến đây với nàng, muốn cùng nàng nên nghĩa vợ chồng, có lấy được nàng tôi mới về.
Nữ Thần: Từ cái sàn sân này, ngươi hãy về đi! Ngươi hãy đi khỏi cái nhà này đi! Ta là con của thần Trời, dù ngươi mới chỉ được ăn cơm, tắm nước lã, hương nghệ chưa vương cũng đành vậy.
Đăm Săn: Tôi nghĩ tôi thương nàng, hỡi người con của thần Trời. Nhưng cho đến bây giờ đằng lưng nàng đã không ưng, đằng bụng nàng cũng không ưa, cả tiếng nói tiếng cười với tôi nàng cũng tiếc. Tôi đành quay về làng hoang nhà cũ của tôi vậy. Tôi quay về ăn thịt trâu thịt bò của tôi vậy.
Nữ Thần: Ấy, người đừng ra về vội. Ta ra đi bây giờ đây, người chết mất thôi.
Đăm Săn: Sống được chết đành! Tôi về đây!
Thế là Đăm Săn ra về. Chàng nhảy lên ngựa ra đi.
Lúc này mặt trời mới ló lên ở đầu núi, ngựa của Đăm Săn vẫn còn kiệu được. Khi ngựa đến giữa rừng Đen thì mặt trời đã lên cao, ngựa bắt đầu bị dính ở chân. Mặt trời lên cao nữa, khi nó chấm ngang cây xà dọc phía đông thì đất loãng ra. Tuy nhiên ngựa vẫn còn chạy được, nó tiếp tục chạy những lún dần, cho đến khi bị dính ngang đầu gối. Từ đó nó phải đi bước một. Khi mặt trời lên quá cây xà dọc phía đông, ngựa đã lún đến sát bẹn, nhưng nó vẫn ráng bước tới. Cho đến khi mặt trời đứng bóng thì ngựa không sao bước được nữa. Nó bị ngập đến ngang lưng, đến mức cả ngựa, cả Đăm Săn đều chìm xuống. Trước hết Đăm Săn thấy một con bướm.
Đăm Săn: Ơ bướm, ơ bướm, cứu ta với
Bướm: Tôi làm sao mà cứu anh được?
Liền đó Đăm Săn thấy một con chuồn chuồn
Đăm Săn: Ơ chuồn, ơ chuồn! cứu ta với!
Chuồn Chuồn: Tôi thì làm sao mà cứu anh được, anh ơi!
Đăm Săn: Không cứu được thì hãy bay về làng báo cho vợ anh biết anh đã rơi vào vùng rừng hoang đầm vắng, vào vùng đất mềm rừng bà Sun Y Rít, vùng rừng tối như đêm rồi.
Chuồn chuồn bay đến nhà Hơ Nhị, Hơ Bhị.
Chuồn chuồn: Ơ chị Hơ Nhị, ơ chị Hơ Bhị, tôi đến báo cho các chị biết, chồng các chị anh Đăm Săn đã chết chìm trong Đất sáp Đen rồi.
Hơ Nhị: Anh ấy đi đâu về?
Chuồn chuồn: Đi bắt nữ Thần mặt Trời về, nên bị chìm trong rừng Sáp Đen đất nhão, nơi rừng bà Sun Y Rít rồi.
Hơ Nhị: Em không đùa chứ? Đúng như vậy hả em?
Chuồn chuồn: Sao tôi lại đùa được? Anh ấy chết trong vùng rừng hoang đầm vắng, ở nơi tận cùng của đất giáp với trời, ở vùng rừng cỏ cằn đất nhão. Đúng là Đăm Săn đã chết rồi. Đăm Săn, nhà tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn nhiễu vai mang nải hoa đã chết rồi chị ạ! Trời nắng to làm chảy Đất Sáp Đen. Trời đã làm anh ấy rơi vào vùng đất non nước lạnh, vùng rừng tối như đêm, không được gặp một ai là anh em các chị cả.
Hơ Nhị: Ơ các con, ơ các con! hãy chạy đi báo cho các juk H’Âng, Hơ Lị, chị em của ông Đăm Săn biết, ông đã rơi vào vùng rừng cỏ cằn đất nhão, vùng rừng bà Sun Y Rit trên đường đi bắt nữ Thần Mặt Trời về rồi!
Bọn tôi tớ chạy đến nhà Hơ Âng.
Tôi tớ: bà ơi, chúng tôi đến báo bà biết ông Đăm Săn đã rơi vào vùng Đất Sáp Đen bùn dính, ở nơi cuối đất chân trời rồi!
Hơ Âng (nói với tôi tớ): Ơ các con, ơ các con, hãy đánh trâu đánh bò đi thui không cần đếm. Em ta đã chết trong vùng Đất Sáp Đen rồi.
Hơ Nhị, Hơ Bhị: Hỡi nghìn chim sẻ, hỡi vạn chim ngói! Hỡi tất cả tôi tớ của ta. Chúng ta hãy đi làm đám cho ông Đăm Săn chết trong rừng bà Sun Y Rit rồi! các con hãy đi mời người cả trăm, đi gọi người cả nghìn. Bạn bè tôi tớ của ta hãy rủ nhau đi rợp đất rợp trời làm đám cho ông. Hỡi những người giữ ngựa hãy đi bắt ngựa! Hỡi những người giữ trâu hãy đi bắt trâu!
Đoàn người ra đi cuồn cuộn như bày catong, nghìn nghịt như bày kên kên, tầng tầng lớp lớp đặc cả núi sông. Trong dòng người, có cả các tù trưởng người Bih đeo nanh cọp, có cả các tù trưởng người Mnông đeo răng rắn. Dòng người đi viếng Đăm Săn thật không sao kể xiết.
Đoàn người đã đến vùng cỏ cằn đất nhão, vùng rừng bà Sun Y Rit. Đến nơi rồi ai làm cột klao cứ làm cột klao ( 13). Ai làm cột kut cứ làm cột kút. Ai làm lán cứ làm lán. Ai thui trâu bò cứ thui trâu thui bò. Ai nấu cơm cứ nấu cơm. Ai cột rượu cứ cột rượu. Ai đánh chiêng cứ đánh chiêng.
Còn Hơ Nhị, Hơ Bhị. H’Âng, Hơ Lị cứ ngồi khóc, khóc cả ngày không biết có chiều, khóc cả đêm không biết có sáng. Nước mũi đầy đùi, nước mắt đầy tay.
Hơ Nhị: Ơ nuê ơi, thế là cây đã không còn nữa, cây klông đã đổ rồi. Khắp vùng Bih, vùng Mnông đâu còn một tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn nhiễu, vai mang nải hoa như nuê nữa. Nuê giàu có voi đàn chiêng đống, tưởng đâu nuê được chết bia cao hòm tốt, mồ mả được thăm viếng tháng năm. Ngờ đâu nuê lại rơi vào vùng Đất Sáp Đen! Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, nghe đông tây đâu đâu cũng nói nuê có chiêng lắm, chạ nhiều. Thế mà nuê lại chết dọc sá dọc đường trong rừng Sáp Đen. Để cơm em khô trong bát, gà em quắt lại trong xiên, thịt xác ra như thịt con kên kên đực.
Hơ Bhị: Ơ anh ơi! Ới anh ơi! Em vẫn tưởng anh có chết thì chết trên bãi chiến trường khi đáng chiến đấu với quân thù, vây bắt tù binh, giày xéo đất đai của bọn tù trưởng nhà giàu. Ngờ đâu anh lại rơi vào Đất Sáp Đen, chết trong rừng đất nhão. Ới anh ơi! anh về mà ăn gan bò chúng ta trong mâm. Ăn gan trâu chúng ta trong thau, uống rượu ché tukc ché tang một mình một cần, ơ anh ơi!
Hơ Âng: Ới em ơi, ới em ơi. Trước kia khi em còn là một tù trưởng giàu mạnh đầu đội khăn nhiễu vai mang nải hoa, nếu em bị người Bih cầm tù thì chị nào để em bị giam giữ. Nếu em bị người Mnông bắt giam thì chị nào để em bị xích xiềng. Nếu em bị bọn tù trưởng nhà giàu bắt cầm tù thì dù chiêng cả trăm chị cũng cho, dù knă cả trăm chị cũng cho, dù tôi trai tớ gái phải bao nhiêu đi nữa thì chị cũng cho. Thế mà giờ đây chị em ta mặt không còn gặp mặt. Em mất đi mà không được gặp chị lại một lần.
Hơ Lị: Ơi anh ơi, mẹ dạy anh không nghe, cha bảo anh không vâng. Anh cầm sáo buốt anh thổi cho đến thiệt thân! Em khóc anh nước mũi đầy chén hoa, nước mắt đầy bát sứ. Em khóc anh! Người em nước mắt đầm đìa, anh ơi. Cơm em không còn muốn ăn, nước em không còn muốn uống. Bồ kết em cũng chẳng buồn lấy để gội đầu, thịt trâu thịt bò em cũng không sao nuốt nổi được nữa.
Hơ Âng: Ơ em ơi, gãy xagac này chị thay xagac khác. Gãy rìu này chị thay rìu khác, voi đực voi cái chết chị lại mua. Đằng này người chết thì làm sao chị có lại được nữa em ơi!
Vừa lúc đó một con ruồi bay vào miệng Hơ Âng
Đến đây Hơ Nhị cho chôn chiêng một trăm năm. Cũng xua bốn năm người, vài ba người nhảy vào vùng rừng cỏ cằn đất nhão, rừng bà Sun Y Rit
Hơ Nhị: Ơ juk, ơ juk. Đến đây mồ chúng ta đã đắp, mả chúng ta đã vun, cột gơng klao, gơng kut đã trồng. Trâu bò chúng ta đã thui không ngớt ngày đêm. Bây giờ chúng ta hãy ra về. (nói với tôi tớ) Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói. Ơ tất cả tôi tớ của ta. Cho đến đây chúng ta đã làm đám ông xong. Bây giờ chúng ta hãy trở về nhà, làm lễ cáo thần, cáo tổ tiên, cáo linh hồn các tù trưởng xưa cũ. Cầu cho chúng ta được mãi mãi mạnh tay rìu, khỏe tay dao trong công việc nương rẫy.
Sáng dậy khi mặt trời vừa ló, người ta lấy rượu năm ché, trâu nâng một con làm lễ cầu yên cho mọi người.
Hơ Âng: Ơ juk, ơ juk. Đến đây rượu đã nhạt, ché đã phai, ai đã về nhà nấy. Chúng tôi cũng xin về juk ạ.
3.2 Sử thi Đẻ đất đẻ nước
Sử thi Đẻ đất đẻ nước là một bản trường ca của người Mường được kể dưới dạng văn vần. Đây là một bộ sử thi lớn, tập hợp các truyện kể thần thoại về sự hình thành của trời đất và thế giới.
Đẻ đất đẻ nước được dùng chủ yếu bởi các thầy mo trong các buổi diễn xướng lễ tang của dân tộc Mường. Hiện tại, tác phẩm được xem như một công trình văn hoá đậm chất văn hoá dân gian, triết học và lịch sử dân tộc.
Xem thêm: Trích đoạn trong “Đẻ đất đẻ nước”
Ngày xưa sinh đời trước
Dưới đất chưa có đất
Trên trời chưa có trời
Trên trời chưa có ngôi sao đỏ đỏ
Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh
Chưa có nước sông Quanh, mó Vận
Chưa có mó Vận, Sông Sàng, mó Li
Không có đường đi lối lại
Chưa đẻ đồi cái, đồi con
Đất còn nên pạc lạc
Nước còn nên pời lời
Trên trời con nên puổng luổng
Ngó lên, trông xuống còn nên tịn vị
Móc muốn dậy nhưng chưa có lóng
Bứng muốn dậy nhưng chưa có buồng
Luồng muốn dậy nhưng chưa có ngảnh
Cau muốn dậy nhưng chưa có mo ne
Dây củ mài muốn dậy leo vắt leo vờ
Dây sắn muốn dậy néo vò
Dây sọ muốn dậy leo đất leo nước
Kim muốn dậy nhưng chưa có thép
Cờ hẹp muốn dậy nhưng chưa có cờ tường
Khiêng cơm muốn dậy nhưng chưa có khiêng rượu
Con thác muốn dậy nhưng chưa có con sao
Con sao muốn dậy nhưng chưa có ngày tháng
…
Bài viết trên cung cấp các thông tin cơ bản về sử thi và tham khảo một số tác phẩm sử thi nổi tiếng cùng những tác giả liên quan, hy vọng bạn sẽ có thêm nhiều kiến thức thú vị. Hãy ghé thăm VOH mỗi ngày để sưu tầm cho mình những bài viết hay, bổ ích nhé!
(Nguồn ảnh: internet)