– Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
– Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ.
Bạn đang xem: 8 bài phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật – Văn mẫu lớp 9
– Là một trong những biểu tượng tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ giải phóng quê hương.
– Ông luôn chuyển đổi hiện thực chiến trường vào thơ một cách tự nhiên, bằng giọng thơ hài hước và dí dỏm.
Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tuy vậy ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường nhập ngũ, đó cũng là nơi ông sáng tác ra rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.
Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, ngay sau đó Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam
Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam. Đó quả là một thành tích đáng tự hào.
Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
19-11-2007, ông được chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao tặng Huân chương lao động hạng nhì
Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn Học Nghệ thuật
Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”…
Qua hình ảnh chiếc xe không kính, tác giả muốn đặc biệt nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến tranh và hình tượng những lính gan dạ, dũng cảm, luôn lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng.
Trong thời kỳ chiến tranh chống đế quốc Mĩ gay gắt, hàng ngàn sinh viên tình nguyện từ bỏ bút chì để cầm súng bảo vệ độc lập quốc gia. Tuyến đường Trường Sơn, huyết mạch nối tiền tuyến và hậu phương, chịu đựng đêm ngày bom đạn của kẻ thù.
Viết năm 1969, thời chiến tranh gay gắt, bài thơ lấy cảm hứng từ những chiếc xe tải vận chuyển nhu yếu phẩm cho miền Nam trên tuyến đường Trường Sơn, bị bom giật, bom rung làm chúng mất kính. Phạm Tiến Duật sáng tác tác phẩm này.
– Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính
– Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính
– Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe
– Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam
Bài thơ của Phạm Tiến Duật khắc họa một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
Bài thơ khắc họa một hình ảnh độc đáo. Đó là những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam
Bài thơ kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ, có chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, sáng tạo được những hình ảnh độc đáo.
Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
Bài thơ còn sử dụng các biên pháp tu từ như điệp ngữ, hoán dụ giúp các hình ảnh thơ giàu tính liên tưởng, hấp dẫn.
– Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.
– Vài nét về tác giả Phạm Tiến Duật- một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh
– “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với hình ảnh chủ đạo là chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với bao phẩm chất tốt đẹp.
– Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm
– Bài thơ ra đời vào năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng ác liệt
– Bài thơ là lời ngợi ca vẻ đẹp của người lính cách mạng thời bấy giờ
1. Luận điểm 1: Hình ảnh chiếc xe không kính
– Những người lái xe giải thích, giới thiệu một cách tự nhiên, chân thực về người bạn đường thủy chung, gắn bó của họ.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ mất rồi
Tác giả lí giải những chiếc xe “không có kính” “bởi”, “bom giật, bom rung”, bởi sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh. Hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng điệu thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe không kính.
– Chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe không có kính sao bao chặng đường lăn lộn khó nhọc đã bị bom Mĩ tàn phá, hủy diệt trở nên méo mó, biến dạng:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe không có xước
Điệp ngữ “không có” kết hợp với biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh chiếc xe không chỉ không có kính mà còn không có đèn, không có mui xe, thùng xe găm đầy những vết đạn xước … Hàng loạt các từ phù định “không” đã diễn tả một cách độc đáo, chân thực đến trần trụi những chiếc xe trên đường ra trận. Mặc dù bị biến dạng, thiếu nhiều điều kiện để bảo vệ người lái nhưng những chiếc xe vẫn băng ra chiến trường.
2. Luận điểm 2: Hình ảnh những người lính lái xe
Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh thinh thần lớn lao của họ.
a. Tư thế ung dung, hiện ngang sẵn sàng ra trận:
– Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy, tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.
+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính
+ Thủ pháp liệt kê “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã cho ta thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.
+ Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
– Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.
+ Điệp ngữ “nhìn thấy…nhìn thấy…thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.
+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.
+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim. Đồng thời cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng MN
+ Đặc biệt hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.
=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.
b. Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ hiểm nguy của người lính (khổ 3+ 4)
Những gian khổ nguy hiểm đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
– Hình ảnh “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường.
– Cấu trúc lặp: “không có…, ừ thì…” đi liền với kết cấu phủ định “chưa có…” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn
– Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính Trường Sơn.
– Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc” và “lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách
– Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh…làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu.
=> Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
c. Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của những người lính lái xe (khổ 5+ 6)
Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, họ lại gặp nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
– Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về.
– Hình ảnh “Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:
+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính.
+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau
+ Là sự sẻ chia vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua.
– Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh, dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
– Các định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.
– Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút hạng phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp họh coa cảm giác gần gũi thân thương như ruột thịt.
– Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng- đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi
– Nghệ thuật ẩn dụ: “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần
– Điệp từ “lại đi lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nổi.
d. Lí tưởng cách mạng của những người lính lái xe.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phái trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim
– “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.
Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Mọi thứ cảu xe không cò nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích
+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường
+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước
Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
3. Đánh giá chung về nghệ thuật: Với lời thơ mộc mạc gần với ngôn ngữ đời thường, giọng điệu ngang tàn, trẻ trung; cách khai thác chất liệu của chiến tranh… nhà thơ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo nên một bài thơ với những hình tượng độc đáo.
– Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, sử dụng nhiều biện pháp tu từ quen thuộc…
– Bài thơ đã khắc họa chân thực nhất vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung hiên ngang, tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và ý chí giải phóng miền Nam. Vẻ đẹp của các anh cũng là tiêu biểu cho thế hệ thanh niên những năm đánh Mĩ
Phạm Tiến Duật được gọi là “Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca”. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của ông đã để lại một ấn tượng thật thú vị. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những “Viên ngọc Trường Sơn” đó.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ thể hiện ý chí giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó là động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh phi thường để người lính vượt lên tất cả, bất chấp mọi khó khăn, ngu hiểm:
“Không có kính, rồi mui xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu không có kính nay càng trở nên hư hại hơn, vật chất càng thiếu thốn:
“Không có kính, rồi mui xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Điệp từ “không có” được lặp lại ba lần nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe và cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường. Bom đạn kẻ thù có thể làm biến dạng chiếc xe nhưng không đè bẹp được tinh thần và ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà còn có một động cơ tinh thần “vì miền Nam”:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Đối lập với tất cả cá không có ở trên là một cái có, đó là trái tim. Đây là hình ảnh hoán dụ, là sức mạnh của người lính, sức mạnh của người chiến sĩ chiến thắng bom đạn của kẻ thù. Trái tim ấy đã thay thế cho tất cả những thiếu thốn: không kính, không đèn, không mui, hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể thống nhất tiếp tục tiến về phía trước hướng về miền Nam ruột thịt. Trái tim yêu thương, trái tim can trường cảu người chiến sĩ lái xe đã trở thành nhãn tự cảu bài thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc. Trái tim của người lính đã tỏa sáng rực mãi đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không thể nào quên thế hệ thanh niên thời chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Nhịp đập ở đoạn thơ này đã lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Hình như, chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẽ, cảm thông lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng. Qua đó chúng ta càng cảm nhận rõ rệt hơn về vẻ đẹp tâm hồn của người lính thời chống Mỹ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Phạm Tiến Duật về những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ đã cho ta thấy tinh thần lạc quan, vui vẻ của những người chiến sĩ thời kháng Mĩ. Lái những chiếc xe không kính, không đèn, không mui trên con đường hành quân gian khổ nhưng họ lại không bi quan mà còn lấy đó làm niềm vui. Họ đã dũng cảm lái những chiếc xe ấy trên những cung đường “đạn bay vèo vèo” nhưng chẳng hề sợ hãi. Những chiếc xe không kính ấy còn giúp người chiến sĩ gắn kết lại với nhau. Giữa những lúc nghỉ ngơi, người chiến sĩ bệ vệ ngồi quây quần bên nhau chung bát chung đũa. Bên cạnh đó qua bài thơ ta còn thấy hình ảnh những anh lính lái xe tràn đầy nhiệt huyết và niềm tin. Họ sẵn sàng từ bỏ thanh xuân và tuổi trẻ xông pha ra chiến trường bảo vệ sự bình yên cho đất nước. Đó chính là đại diện cho vẻ đẹp, cho hào khí của cả một thời đại của dân tộc đang trong bước nguy nan.
Trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Nhưng tác giả sử dụng hình ảnh là những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Đó là hình ảnh hoàn toàn có thực trong chiến tranh, thực đến trần trụi đã được tác giả nắm bắt đưa vào thơ và khai thác ở đó cả chất thơ và nhiều ý nghĩa. Hơn nữa, viết về những người lái xe thì không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà làm nổi bật hình ảnh người lái xe. Bởi vậy, có thể nói khi tìm được hình ảnh chiếc xe không kính tác giả đã tìm được sự đặc sắc cho bài thơ của mình tạo thành một hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê; “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng. Ba tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói phám phá ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đó là những nữ thanh niên xung phong quả cảm, gan góc nhưng mang một trái tin đầy trẻ trung, nhiều khát vọng, tràn đấy tinh thần yêu thương. Đó là hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên nền hiện thực tàn khốc ấy đã xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người chiến sĩ giản dị, mộc mạc mà ngang tàng bất khuất. Đó cũng là vẻ đẹp của anh thanh niên với lí tưởng sống cao đẹp vì nhân dân, vì đất nước. Ba tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói phám phá ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Bài thơ về những người lính lái xe của Phạm Tiến Duật có một nhan đề thật lạ: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề ấy gợi sự tò mò, thú vị cho người đọc: thế nào là “xe không kính”, tại sao xe lại “không kính”? Và nhan đề đặc biệt này đã làm nổi bật hình ảnh độc đáo của toàn bài và đó cũng là hình ảnh hiếm gặp trong thơ – hình ảnh những chiếc xe không kính. Hình ảnh ấy gợi lên hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Sự bất thường của sự vật được nêu trong nhan đề ấy đã hé lộ giọng điệu của bài thơ: ngang tàng, nghịch ngợm và rất trẻ trung. Không chỉ vậy, bản thân tác phẩm đã là một bài thơ nhưng tác giả còn đặt thêm nhan đề “Bài thơ…”. Điều đó có thừa không? Xin thưa là không! Vẻ khác lạ của hai chữ “bài thơ” khẳng định chất thơ của hiện thực, của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm nguy của chiến tranh. Nhan đề góp phần làm nổi bật chủ đề của toàn tác phẩm: ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đồng thời thể hiện cảm hứng khai thác chất thơ từ trong hiện thực chiến tranh khốc liệt của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
“Những đoàn quân trùng trùng ru trộn” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn Đóng, Trường Sơn Tây là hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn…
“Những đoàn quân trùng trùng ra trận” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 30 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. ở bốn khổ thơ đầu, giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Hai câu đầu như một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên tự nhiên của người lính Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”. Các điệp ngữ: “không có… không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí ác liệt chiến trường, vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiệm trong khói lửa.
Một tư thế chiến đấu rất đẹp:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ “nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.
Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước. “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…”; các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái” đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái.
Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành “tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười hu ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già,
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:
– Không có kính, ừ thì có bụi,
– Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:
Không có kính, ừ thì ướt áo,
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.
Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thơ hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca. Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về gian khổ, ác liệt chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.
Xem thêm : Cách ăn chuối giảm cân trong 2 tuần giảm 4 – 5kg của người Nhật
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ hào hùng của dân tộc, hình ảnh người lính hiện lên qua thơ văn luôn mang nhiều vẻ đẹp. Trong số những bài thơ nói về họ thì Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hai bài thơ rất đặc sắc.
Hiện lên ở từng bài thơ, đều là hình ảnh người lính như trong hai cuộc kháng chiến khác nhau chống Pháp và chống Mĩ. Đó là những người lính đầy nhiệt huyết, dũng cảm, luôn mang lí tưởng và lòng yêu nước bên mình. Với Đồng chí thì họ hiện lên qua tình cảm gắn bó giữa những người đồng đội với nhau. Từ những vùng quê khác nhau, họ gặp nhau trong quân ngũ vì mong muốn đất nước được tự do, độc lập, cuộc sống yên bình hạnh phúc. Họ cùng nhau trải qua những khó khăn như áo rách, quần vá, sốt run người để chiến đấu. Họ san sẻ với nhau vất vả và niềm vui. Đêm giữa rừng hoang sương muối, họ vẫn đứng bên nhau chờ giặc. Mảnh trăng treo nơi đầu súng là minh chứng cho tình đồng đội của họ, cũng là ước mơ, hi vọng hoà bình, đất nước độc lập của họ. Người lính trong Đồng chí là những người lính luôn kề vai, sát cánh bên nhau. Tình đồng chí của họ thật cao đẹp biết chừng nào. Còn ở bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính, người lính hiện lên thật trẻ trung, lạc quan, yêu đời, và cũng đầy lòng dũng cảm. Khi này, ý thức giác ngộ cách mạng của họ đã sâu sắc hơn, lí tưởng cao đẹp của họ đã rõ ràng hơn. Người lính lái xe, với chiếc xe không kính của mình luôn sống sôi nổi, yêu đời. Từ trong bom rơi, những chiếc xe vẫn thẳng tiến vì miền Nam phía trước. Dù bụi phun tóc trắng như người già hay mưa tuôn mưa xối như ngoài trời họ vẫn không nao lòng. Những chiếc xe không kính ấy luôn đem theo trái tim hướng về miền Nam, hướng về hoà bình, tự do, độc lập của họ. Qua cả hai bài thơ, hình ảnh người lính luôn hiện lên cao đẹp và giàu sức sống.
Đề 1: So sánh hình ảnh người lính cách mạng ở hai bài thơ Đồng chí – Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Phạm Tiến Duật
Đề 2: Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
Đề 3: Cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật
Đề 4: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của những người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật
Đề 5: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã tái hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn sự khốc liệt của những năm tháng chiến tranh chống Mĩ đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh” (*) Từ những cảm nhận của em về khổ đầu và khổ cuối bài thơ, hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề 6: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Đề 7: Hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Đề 8: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Từ đó em có suy nghĩ gì về người lính trong kháng chiến chống Mĩ?
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Đồng chí”
(Đồng chí – Chính Hữu)
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
(Bài thơ về Tiểu Đội Xe Không Kính – Phạm Tiến Duật)
Hình tượng người lính là đề tài, là nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn, nhà thơ. Viết về họ có nhiều vần thơ đẹp tạo lên những rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc. Trong số đó phải kể đến bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Trong đó là hai đoạn thơ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Đồng chí!”
(Đồng chí – Chính Hữu)
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
(Bài thơ về Tiểu Đội Xe Không Kính – Phạm Tiến Duật)
Hai đoạn thơ đã thể hiện hình ảnh người lính trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với vẻ đẹp cao quý, lạc quan, dũng cảm, thắm tình đồng chí, đồng đội.
* Khái quát: Bài thơ được ra đời hai thời điểm khác nhau. Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu viết vào năm 1948 thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969 thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Hai đoạn thơ đều cho chúng ta thấy những khó khăn, thiếu thốn mà những người lính phải trải qua, đồng thời làm hiện hình ảnh người lính với vẻ đẹp và tâm hồn cao quý.
1. Trước hết bài thơ “Đồng chí” Chính Hữu đã làm hiện lên hình ảnh những người lính gắn bó với điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn nhưng họ luôn lạc quan và thắm tình đồng chí đồng đội.
a. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bộ đội ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, gian khổ tất cả điều đó được Chính Hữu gợi tả hết sức chân thực:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Những người lính cách mạng đã chấp nhận cuộc sống quân ngũ thiếu thốn. Họ phải trải qua gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính. Với những hình ảnh cụ thể, chân thực (áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, Miệng cười buốt giá, chân không giày) và các cặp câu thơ sóng đôi đối ứng (áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, Miệng cười buốt giá, chân không giày) tạo sự nhịp nhàng, cân xứng cho câu thơ, đồng thời diễn tả sự giống nhau trong mọi cảnh ngộ cuộc đời người lính. Những người lính trong trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh, thiếu thốn về quân tư trang (áo anh rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày), họ phải chịu cái khắc nghiệt của thời tiết “miệng cười buốt giá” đặc biệt họ phải chịu những cơn sốt rét rừng nguy hiểm “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Chỉ qua những chi tiết đó thôi đã cho ta thấy những người lính cách mạng phải chịu những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đến nhường nào.
b. Đoạn thơ thể hiện hình ảnh người lính với tinh thần lạc quan, thắm tình đồng chí, đồng đội khó khăn, gian khổ những người lính bộ đội cụ Hồ vẫn sáng nên vẻ đẹp cao quý.
Trước hết họ là những người có tinh thần lạc quan trong gian khổ thiếu thốn, tinh thần lạc quan càng rạng ngời: “Miệng cười buốt giá”. Những gian lao thiếu thốn không làm mất đi nụ cười của họ, nụ cười của những người lính như xua tan cái giá lạnh của mùa đông, nụ cười đó còn toát lên tinh thần lạc quan của những người lính.
Những người lính còn thắm tình đồng chí, đồng đội. Tình đồng chí, đồng đội là bản chất cách mạng của anh bộ đội cụ Hồ. Tình đồng chí, đồng đội đã làm ấm lòng những người chiến sĩ để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên mọi buốt giá. Những người lính vẫn cười trong gian lao bởi họ có hơi ấm, niềm tin của tình đồng chí. Tình đồng chí đã giúp họ vượt qua những gian lao thiếu thốn cuộc kháng chiến. Những người lính đã quên mình đi để động viên, tuyên truyền cho nhau hơi ấm để có thêm sức mạnh vượt qua mọi gian lao thiếu thốn.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Những người lính đã quên đi cái khắc nghiệt của thời tiết, khó khăn thiếu thốn của cuộc kháng chiến để “tay nắm lấy bàn tay” đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, vừa nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của người những người lính, vừa gián tiếp thể hiện sức mạnh của tình cảm thấy. Dường như chỉ bằng một cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay” mà những người lính như truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh, niềm tin giúp họ vượt qua được khó khăn gian khổ, sưởi ấm cho họ giữa những cánh rừng hoang sương muối mùa đông giá rét.
c. Khái quát
Như vậy Chính Hữu đã sử dụng thể thơ tự do, những chi tiết hình ảnh ngôn ngữ giản dị, chân thực cô động, giàu sức biểu cảm. Các câu thơ sóng đôi, đối ứng đã thể hiện hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống thực dân Pháp còn nhiều khó khăn gian khổ thắm tình đồng chí, đồng đội.
2. Đến với đoạn thơ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật ta lại bắt gặp hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn với những khó khăn gian khổ của cuộc chiến đấu, nhưng lại rất ung dung, hiên ngang, dũng cảm.
Hai câu thơ mở đầu đoạn thơ đã làm nổi bật hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính. Xưa nay hình ảnh xe, tàu thuyền nếu đưa vào thơ ca thì thường được lãng mạn hóa, mỹ lệ hóa và còn mang ý nghĩa tượng trưng hơn tả thực Tế Hanh đã từng miêu tả con thuyền trong bài “Quê hương”, “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã” và Huy Cận từng miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trong bài “Đoàn thuyền đánh cá”, “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”. Những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh rất thực. Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất là giản dị như một lời nói thường có giọng điệu thản nhiên:
“Không có kính…. vỡ đi rồi”
Chính giọng thản nhiên đã gây sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe, tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực, giản dị, tự nhiên: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe ấy không còn chính kính chắn gió. Như vậy hình ảnh những chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh. Nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với những nét ngang tàng nghịch ngợm, thích cái lạ của Phạm Tiến Duật mới nhận ra và đưa nó thành hình tượng thơ độc đáo của thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Từ hình ảnh những chiếc xe không kính người đọc hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh.
b. Từ việc miêu tả những chiếc xe không kính, tác giả muốn ngợi ca người chiến sĩ lái xe. Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật rõ hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để những người lính lái xe bộc lộ phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ. Đó là những người lính lái xe ung dung, hiên ngang, bất khuất.
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Câu thơ đã diễn tả cảm giác ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách khi lái những chiếc xe không kính, những người chiến sĩ không hề run sợ mà trái lại họ hiện ra tư thế ung dung, hiêng ngang. Từ láy tượng hình ” ung dung” đã diễn tả rất chính xác tư thế của những người lính lái xe. Kết cấu trong 6 chữ với nhịp 2/2/2, điệp ngữ “nhìn” cùng phép đảo ngữ (chữ ung dung đảo lên đầu câu thơ) đã làm nổi bật những cái tư thế ấy. Dường như ở phía trước cả không gian đất trời thu vào tầm mắt của họ qua khung cửa xe không có kính chắn gió.
c. Khái quát: Với thể thơ tự do, giọng thơ rất gần với lời nói thường, tự nhiên, khỏe khoắn, từ ngữ giàu cảm xúc Phạm Tiến Duật đã khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn sừng sững hiên ngang trước mọi khó khăn nguy hiểm.
3. Như vậy hai bài thơ nói chung, hai đoạn thơ nói riêng viết ở các thời điểm khác nhau. Nhưng đều giúp người đọc cảm nhận được những khó khăn, thiếu thốn mà người lính cách mạng phải trải qua, đồng thời làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Họ chính là đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Cả hai đoạn thơ đều sử dụng những hình ảnh giản dị, chân thực, từ ngữ giàu hình ảnh, sức gợi.
Hình ảnh người lính trong hai đoạn thơ bài thơ “Đồng Chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đều phải trải qua những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến, đồng thời họ nhìn lên với vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Đó là những anh lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp lạc quan, thắm tình đồng chí, đồng đội. Đó là những anh lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, ung dung, hiên ngang. Vẻ đẹp của những người lính khiến chúng ta yêu mến, cảm phục, tự hào. Là thế hệ trẻ chúng ta phải tiếp nối truyền thống yêu nước của thế hệ cha ông đi trước.
“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm.
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây…”
(Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây)
Năm 1970, tập thơ “Vầng trăng, quầng lửa” của Phạm Tiến Duật ra đời. Tiếng thơ của người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng, trẻ tráng và hồn nhiên kì lạ. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. “Lửa đèn”, ‘Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, “Gửi em, cô thanh niên xung phong”,… là những bài thơ rất nổi tiếng của chàng lính trẻ làm thơ này.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những chiến sĩ lái xe trên đường Tnrờng Sơn đã đi vào văn học với tư cách là những anh hùng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay viết về những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn.
Mở đầu bài thơ đã thấy cái dữ dội của chiến tranh và nổi bật tư thế của người chiến sĩ lái xe:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Phạm Tiến Duật thuộc vào loại những nhà thơ thích đùa. Giọng điệu tưng tửng “Không có kính không phải vì…” như nhà thơ được truyền tinh thần lạc quan của các chiến sĩ lái xe trước sự ác liệt của chiến tranh. Bằng giọng điệu bông đùa, nhà thơ giải thích lí do “xe không có kính”:
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Đối lập với hình ảnh dữ dội của chiến tranh là thái độ “ung dung” của người chiến sĩ lái xe. Hình ảnh “ung dung” được đảo ngược càng nhấn mạnh tư thế của người lái xe. Và nhà thơ đã dẫn đến phát hiện bất ngờ:
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Phát hiện nhỏ cũng gây ấn tượng, ấn tượng về nỗi gian khổ của người lính lái xe ra trận “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”, ấn tượng về tình yêu đất nước của người chiến sĩ lái xe “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”, ấn tượng về tinh thần lãng mạn của họ:
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Những hình ảnh “như sa”, “như ùa” diễn tả sự vận động gấp gáp của đoàn xe ra trận.
Tác giả lại thay đổi nhịp điệu, từ câu thơ nhịp 2/2/2 (Nhìn đất/nhìn trời/nhìn thẳng), nhịp 2/2/3 (Như sa/như ùa/ vào buồng lái) đến câu thơ 3/1/3 (Không có kính/ừ/thì có bụi). Và từng cặp đối lập vừa diễn tả nỗi gian khổ của người lính vừa diễn tả niềm lạc quan của họ:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Cái hay ờ đây là tác giả đã miêu tả được nét đặc trưng về nỗi gian khổ của người lính lái xe “không có kính”. Câu thơ “Bụi phun tóc trắng như người già” gợi nhớ câu thơ của Quang Dũng ” Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Thật đúng là một sợi tóc cũng làm ta kinh ngạc về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Hai cặp đối lập này, tác giả vẫn tiếp tục phát hiện nỗi gian khổ của người lính lái xe không có kính và cốt cách của họ:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Những hình ảnh “Bụi phun tóc trắng như người già” hay “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” gợi lên tình thương đối với những người chiến sĩ lái xe ra mặt trận. Câu thơ Phạm Tiến Duật chẳng những hay về hình ảnh mà còn hay về âm điệu. Những thanh trắc (có kính, ướt áo, xối, lái…) phô diễn được cái nghiệt ngã của người lái xe trên đoạn đường chiến tranh. Những thanh bằng, đặc biệt là câu kết của đoạn thơ gần như toàn thanh bằng êm ru một phút yên ả trong tâm hồn người lái xe:
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Tình đồng đội của người lái xe cũng được Phạm Tiến Duật phát hiện những nét riêng. Họ tập hợp lại “từ trong bom rơi”, họ gặp bè bạn “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” (Thương nhau tay nắm lấy bàn tay – Chính Hữu), họ nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm (bếp gần như không có khói vì khói là tai họa đối với người lái xe Trường Sơn). Họ nghỉ ngơi bằng “Võng mắc chông chênh đường xe chạy” và cũng không thiếu những phút thanh bình:
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tác giả phát hiện tất cả mọi khía cạnh của cái không (xe không có kính) để dẫn đến một cái có (có một trái tim) thế là chủ đề sâu sắc của bài thơ được phát triển trọn vẹn:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tác giả lại thay đổi giọng điệu, lời nói “tưng tửng” trong những khổ thơ đầu đã nhường cho lối nói nghiêm trang đượm vẻ thiêng liêng:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hình ảnh “’miền Nam phía trước” vừa nói lên được nhiệm vụ nặng nề là tiếp viện cho chiến trường miền Nam của “tiểu đội xe không kính” vừa gợi lên tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ lái xe đối với miền Nam ruột thịt. Và tứ thơ cuối cùng chỉ cần trong xe có một trái tim đã cân bằng lại tất cả những gian khổ, những tàn phá của chiến tranh. Sức mạnh của tình yêu nước đã chiến thắng kẻ thù hung bạo.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ hay và độc đáo. Phát hiện được đề tài, nhà thơ đã khai thác mọi khía cạnh bất ngờ và thú vị. Giọng điệu thay đổi thích hợp, nhịp điệu luôn luôn biến hóa. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe “Vì miền Nam phía trước” được khắc họa đậm nét, sinh động, nổi bật được cốt cách của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Thế kỉ XX trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc bảo vệ tổ quốc. Có rất nhiều con người đáng được ngợi ca. Những hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn, và hình ảnh cô thanh niên xung phong nơi tuyến lửa, là những hình ảnh tiêu biểu nhất của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Hình ảnh ấy đã được Phạm Tiến Duật – người được mệnh danh là ” Nhà thơ của đường Trường Sơn” tái hiện lại trong ” Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Bài thơ miêu tả những người lính lái xe ung dung, tự tại, lạc quan, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, thể hiện tình đồng chí, đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha, sâu nặng.
a. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
b. Cảm nhận đoạn thơ
* Hình ảnh những chiếc xe không kính:
Mở đâu bài thơ, tác giả đã giúp người đọc hình dung được hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyển lửa Trường Sơn thông qua hai câu thơ giàu chất hiện thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện. Ở hai câu thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với các từ phủ định “không” được lặp lại nhiều lần, Phạm Tiến Duật như muốn nói rằng xe không kính không phải do cấu tạo ban đầu của nó. Vậy thì do đâu? Câu thơ thứ 2 đã giải thích cho điều này. Với các động từ mạnh “giật, rung” lời thơ đã cho ta nhận ra rằng chính bom đạn của chiến tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ. Và từ hình ảnh ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
c. Hình ảnh người lính lái xe:
* Tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin, và tâm hồn lãng mạn:
Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế ung dung, hiên ngang của những người lính lại được thể hiện rõ nét:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng”.
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung dung” lên đầu câu, dường như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn cảnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất như một lời thề. Chữ “nhìn thẳng” khiến ta hình dung như họ đang đối mặt thẳng thắn với gian khổ, hi sinh mà không hề né tránh, không hề run sợ. Không có kính chắn gió, người lính lái xe đã bình tĩnh, tự tin để mà:
” Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Nhịp thơ khoan thai, cùng cách điệp lại từ “nhìn” với các hình ảnh cụ thể như “gió” – “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”… đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm giác, ấn tượng của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo, ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Cuộc sống đẹp biết bao! Tâm hồn lãng mạn đã thăng hoa trong bộn bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh chim bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn. Từ “đột ngột” được dùng rất “đắt” trong câu đảo thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của cánh chim trời. Cánh chim được nghệ thuật hóa, để rồi được nhân hóa qua hai từ “sa”, “ùa” hết sức tự nhiên, không vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là”Đường ra trận mùa này đẹp lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”. Có thể nói,người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái nhìn bình thản. Hình ảnh ẩn dụ “Con đường chạy thẳng vào tim” mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trường Sơn xe đang đi mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ Việt Nam đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của mình để giữ gìn, bảo vệ;đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện thực.
d. Đánh giá:
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn. Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ Phạm Tiến Duật là niềm cảm phục, sự trân trọng, yêu mến dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ hay và độc đáo. Phát hiện được đề tài, nhà thơ đã khai thác mọi khía cạnh bất ngờ và thú vị. Giọng điệu thay đổi thích hợp, nhịp điệu luôn luôn biến hóa. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe “Vì miền Nam phía trước” được khắc họa đậm nét, sinh động, nổi bật được cốt cách của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Chúng ta như được sống trong thời đại hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về hình ảnh người lính trong chiến tranh – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Trong bài thơ ấy, ấn tượng với người đọc nhất có lẽ là những khổ thơ nói về tinh thần lạc quan và tình đồng đội keo sơn gắn bó của những người lính xế.
a. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
b. Hình ảnh người lính
*Nhắc lại nội dung của 2 khổ đầu
Bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử. Và vẻ đẹp của họ tiếp tục được Phạm Tiến Duật ca ngợi ở 4 khổ thơ tiếp
c. Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với cấu trúc “không có kính ừ thì… Chưa cần …” được lặp lại ở hai khổ thơ, nhà thơ đã đem đến cho đoạn thơ giọng điệu ngang tàn, giàu thách thức. Cấu trúc lặp: “không có…, ừ thì…” đi liền với kết cấu phủ định “chưa có…” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính Trường Sơn. Kết hợp với những câu thơ tả thực, khẩu ngữ “ừ thì” thể hiện sự bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách. Hẳn đó là nhờ chất lính, dẫu mưa có tuôn, có xối, dẫu bụi có phun bạc trắng mái đầu thì người lính vẫn “chưa cần thay”, “chưa cần rửa” để lái trăm cây số nữa. Thật là biết đùa cùng gian khó! Giọng thơ đã thể hiện trọn vẹn thái độ bất chấp khó khăn, coi thường hiểm nguy của người lính lái xe. Với họ,những gian khổ khi lái xe không kính ra trận chẳng hề hấn gì. Hai khổ thơ đầy ắp chi tiết hiện thực qua cách dùng từ “xối”,”tuôn”, “phun”. Đó là những gian khổ rất thực như một kiểu hút thuốc phì phèo, một tiếng cười ha ha sảng khoái, một mái đầu bụi phun tóc trắng. Tất cả thể hiện sự bất chấp cuộc sống đầy gian khó bằng niềm vui sôi nổi, trẻ trung và bằng tinh thần lạc quan của người lính lái xe những năm tháng chống Mỹ cứu nước.
d. Sâu sắc hơn, bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe :
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Tình cảm của những người lính trẻ được nhà thơ diễn tả rất đúng, rất phù hợp với phong cách của họ. Sau những chặng đường đầy gian khổ,đầy mất mát hy sinh, họ đã cùng nhau họp thành tiểu đội xe không kính. Cái bắt tay của họ rất độc đáo – “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” – một cái bắt tay mang đầy ý nghĩa. Nó là biểu tượng của niềm tin thắng trận, là lời chúc, lời chào,niềm vui và niềm tự hào. Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh, dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn: Ở đây, nhà thơ đưa ra một khái niệm hết sức mới mẻ về gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Đó là gia đình của những con người cùng chung chí hướng, cùng chung nhiệm vụ. Rõ ràng, những người lính thương yêu nhau như tình ruột thịt. Từ nơi chiến trường ác liệt, họ đã làm thành một gia đình,tạm nghỉ bên nhau, và quây quần trong bữa cơm hội ngộ, để rồi:
Xem thêm : Bún mọc bao nhiêu calo? Ăn bún mọc nhiều có béo không?
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3, như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính lái xe trên đường ra trận. Từ “chông chênh” gợi lên tư thế của người lính, họ vừa đi vừa có người ngủ trên xe, vừa có người chạy xe để xe được chạy liên tục. Từ “chông chênh”giàu sức gợi như tạo hình cho giấc ngủ của người lính. Điệp từ “lại đi” và hình ảnh ẩn dụ ” lại đi trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần, khẳng định những người lính như không ngừng tiến tới, không ngừng ra đi vì bầu trời xanh bình yên phía trước, vì viễn cảnh rộng lớn hơn.
=> Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
d. Đánh giá
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn Vẻ đẹp tâm hồn của những người lính lái xe. Đó chính là tinh thần lạc quan, là thái độ bất chấp khó khăn gian gian khổ và tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ Phạm Tiến Duật là niềm cảm phục, sự trân trọng, yêu mến dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,… Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975.
Từ những cảm nhận của em về khổ đầu và khổ cuối bài thơ, hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Nói đến thơ ca thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, không thể không nhắc đến một người, đó là nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ông như thể được sinh ra để làm thơ về cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta và để trở thành đỉnh cao của thơ ca thời kỳ này. Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời. Đến với khổ đầu và khổ cuối của bài thơ chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó.
a. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha…
b. Chứng minh nhận định
*Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã tái hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn sự khốc liệt của những năm tháng chiến tranh chống Mĩ. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trong bài thơ. Mở đầu bài thơ, tác giả có viết:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
+ Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến lửa Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Nhưng trong thơ ca thì có lẽ đây là lần đầu hình ảnh ấy xuất hiện. Ở hai câu thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng biện pháp tu từ điệp ngữ với các từ phủ định “không” được lặp lại nhiều lần, Phạm Tiến Duật như muốn nói rằng xe không kính không phải do cấu tạo ban đầu của nó. Vậy thì do đâu? Câu thơ thứ 2 đã giải thích cho điều này. Với các động từ mạnh “giật, rung” lời thơ đã cho ta nhận ra rằng chính bom đạn của chiến tranh đã tàn phá khiến cho những chiếc xe vận tải vốn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở thành không kính.
Không chỉ không kính, những chiếc xe vận tải còn bị hư hỏng nhiều bộ phận khác:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe,thùng xe có xước
Ba chữ “không” lại một lần nữa khẳng định mức độ ác liệt của cuộc chiến in dấu trên những chiếc xe ra trận: “không kính”,”không đèn”,”không mui” và lại có thêm cái xước. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ. Và từ hình ảnh ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
c. Vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh
* Vẻ đẹp của tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng,tự tin, và tâm hồn lãng mạn:
Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế ung dung, hiên ngang của những người lính lại được thể hiện rõ nét:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng”.
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung dung” lên đầu câu, dường như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn cảnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất như một lời thề. Chữ “nhìn thẳng” khiến ta hình dung như họ đang đối mặt thẳng thắn với gian khổ, hi sinh mà không hề né tránh, không hề run sợ. Có lẽ chính những khó khăn thử thách, chính bom đạn chiến tranh đã tôi rèn cho họ khiến họ trở nên can trường và bản lĩnh hơn.
*Vẻ đẹp của lòng yêu nước và ý chí quyết tâm giải phóng miền nam thống nhất nước nhà
Không chỉ mang tư thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng, những người lính lái xe trong bài thơ này còn là những chàng trai có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe cómột trái tim”.
“Trái tim” là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng, đó chính là người chiến sĩ lái xe, là sức mạnh và tinh thần quả cảm, là nhiệt huyết của tuổi trẻ, là ý chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu Tổ quốc thiết tha. Hình ảnh này đã khẳng định: khi trái tim cầm lái thì mọi gian khổ, hiểm nguy đều được người lính chấp nhận và vượt qua với tư thế ung dung và niềm vui sôi nổi, lạc quan phơi phới. Hình ảnh này cũng khẳng định bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy được những chiếc xe chứ không thể ngăn cản được nhiệt huyết cứu nước của những con người: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
d. Đánh giá:
Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, liệt kê, hoán dụ và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính lái xe, của thế hệ trẻ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó chính là phong thái un gung hiên ngang, là ý chí quyết tâm giải phóng Miền nam thống nhất đất nước. Lời thơ cho ta nhận ra ở nhà thơ Phạm Tiến Duật là niềm cảm phục, sự trân trọng, yêu mến dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.
Phạm Tiến Duật với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm, có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn. Ngôn từ giản dị, thơ mà có nhạc, trong nhạc có thơ, hình ảnh sáng tạo mà vẫn đầy chân thực… Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên dấu ấn đặc trưng cho tác phẩm – in sâu trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt.
Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế ấy. Không biết đã có biết bao bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ là hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Hình ảnh người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ có nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
1. Luận điểm 1: Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do để đi vào cuộc chiến đấu.
Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân vừa được cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để giải phóng triệt để cho thân phận của mình, cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ “mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời người chiến sĩ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay – Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có tri thức, họ sẵn sàng gác lại những ước vọng tương lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
2. Luận điểm 2.Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và nhờ lòng dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn thành nhiệm vụ.
Nhưng có lẽ đẹp hơn cả là hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ. Đây được xem như nhân vật trung tâm, thể hiện khá tập trung những đặc điểm của con người mới trong chiến đấu. Trong thơ ca, họ không phải là anh lính thời xưa “áo đỏ đuôi gà”, “chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa” mà là anh lính thật thà, chân thật nhưng dũng cảm, kiên cường. Đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ta thấy hiện lên hình ảnh chân thực mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Họ là những người nông dân nghèo khổ từ “tứ xứ” nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà tạm xa quê hương lên đường chiến đấu. Họ “mặc kệ” quê nhà, gia đình, người thân và cả những gì rất đỗi thân thuộc. Ở chiến trường họ cùng chung mục đích, cùng chung lí tưởng chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc; cùng chia sẻ gian lao thiếu thốn của cuộc sống quân ngũ để “súng bên súng, đầu sát bên đầu…” trở thành tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí đồng đội kề vai sát cánh bên nhau:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Rừng hoang sương muối không chỉ là một hiện thực mà cao hơn đó là điều kiện thiên nhiên thử thách ngưửời lính. Trước hiện thực khốc liệt ấy họ vẫn đứng vững vàng với cây súng trong tay sẵn sàng chờ giặc tới. Đây là hành động sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do hạnh phúc cho dân tộc. Với cây súng trong tay, các anh trở thành linh hồn của đất nước. Chính Hữu đã tạc bức tượng đài về ngửười chiến sỹ cách mạng từ tình đồng chí. Từ những ngưửời lính nông dân nghèo khổ “áo vải chân không” được tình cảm cách mạng cao đẹp nâng bước họ mang trong mình dáng hình mới dáng đứng Việt Nam ở thế kỉ XX anh dũng, hiên ngang, bất khuất, kiên cường. Sự sáng tạo của Chính Hữu là ở chỗ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của thơ văn yêu nước thời kỳ trước để làm mới, làm đẹp cho hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.
Vẫn là những anh lính Việt Nam nhưng đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật lại có một thái độ, tư thế, tình cảm, khí phách mới mang tính hiện đại của những con người không phải chờ giặc mà là “tìm giặc” để đánh “nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Thế hệ các anh là thế hệ của những Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm đã có thời mộng mơ, sôi nổi trên ghế nhà trường nay hăm hở ra đi chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước với một lòng yêu nước rực lửa: “Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước”. Con đường Trường Sơn được coi là một con đường huyền thoại trong cuốn sử vàng đánh Mĩ. Hàng triệu tấn bom của giặc Mĩ dội xuống làm biến dạng chiếc xe quân sự: không kính, không đèn, không mui. Nhưng người lính vẫn dũng cảm, can trường trong tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Một tư thế ung dung tới mức ngang tàng của ngươiù lính lái xe. Một sự tự tin, niềm kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào về sứ mệnh của mình – sứ mệnh giải phóng đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phỏi trước
“Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Hình ảnh hoán dụ “trái tim” là biểu tượng của ý chí, của bản thân, của bầu nhiệt huyết, của khát vọng tự do, hoà bình cháy bỏng trong trái tim người chiến sĩ. Cho dù xe không kính, không đèn, không mui thì người lính vẫn còn một trái tim yêu nước, một lòng khát khao giải phóng miền Nam cháy bỏng. Phạm Tiến Duật mang theo cái nhìn của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng, của những người lính trường Sơn đã tạo dựng bức tượng đài người lính với nét ngang tàng, dũng cảm tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
– Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao khó khăn gian khổ, thiếu thốn.
+ Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian nan vất vả, các anh đã từng chịu những cơn “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”… Cũng chính từ trong gian khổ và thiếu thốn của những ngày đầu tiên bước vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng chí! Và chính có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức mạnh lớn lao để vượt qua tất cả: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy sương muối, ở nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, những người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh vẫn chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày chiến thắng. Ta thấy được ở các anh một tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, một niềm lạc quan bất diệt. Đời lính gian khổ nhưng luôn giữ mãi nụ cười dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng trăng treo”, một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi người. Cái tình mới nhất đó là tình đồng chí, đồng đội. Và đồng chí cũng là một chủ đê hết sức mới mẻ của thi ca lúc bấy giờ. Nhà thơ Chính Hữu đã phát hiện tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến qua những vần thơ bay bổng nhưng giàu chất hiện thực Đồng chí. Theo lí giải của nhà thơ, điểm xuất phát của tình cảm này là từ sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân nghèo khổ và cùng chung lí tưởng, mục đích, nhiệm vụ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành tri kỉ”
Một chữ “chung” khiến những người lính vốn xa lạ lại trở thành “Đồng chí”. Tình cảm này không phải chỉ vì cái chung lớn lao mà còn là sự cảm thông sâu xa tâm tư nỗi lòng của nhau, là sự chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời cách mạng:
“Anh với tôi từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh Anh với tôi đôi người xa lạ nhưng kết thúc lại là Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Một hình ảnh giàu cảm xúc, một biểu tượng đẹp đẽ của tình đồng chí đích thực, của sức mạnh đoàn kết. Chính tình đồng chí sâu nặng, thắm thiết đã gắn bó những người lính cách mạng. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ đứng vững bên nhau v-ượt lên tất cả những điều khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ để đi tới thắng lợi cuối cùng.
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và ta thêm cảm phục sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là hình ảnh chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp – những con người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thắng lợi vẻ vang với trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa được bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những người con của quê hương lại tiếp tục lên đường. Những anh chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiện lên trong trang thơ của Phạm Tiến Duật là những anh lính thật ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù hằng ngày trút xuống con đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác liệt hiện hình trong hình ảnh những chiếc xe không kính rồi không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo mó. Gian khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái chết như kề bên, vậy mà lúc nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”. Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được vậy mà nó vẫn tiến lên phía trước bởi có những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của những anh lái xe rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…
Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ: “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức của họ đối với quân thù. Trong khó khăn, trong bom đạn, ranh giới sự sống và cái chết chỉ là rất mong manh, người lính thấu hiểu sâu sắc giá trị đích thực của sự sống và ý nghĩa cao đẹp của tình đồng chí đồng đội:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
Đó là một cái bắt tay rất độc đáo qua cửa kính vỡ rồi. Qua ô cửa kính vỡ họ truyền hơi ấm cho nhau và cho nhau những hứa hẹn lập công. Cái bắt tay nồng ấm tình bạn, tình người hay chính là sự sống đang nở hoa trong sự huỷ diệt của kẻ thù. Có thể nói rằng tình đồng chí, đồng đội là bản chất, là sức mạnh của người lính. Từ cái nắm lấy bàn tay trong thơ Chính Hữu đến cái bắt tay trong thơ Phạm Tiến Duật là cả một quá trình trưởng thành và hiện đại của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc, đất nước. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe ấy vẫn băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát, trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về Miền Nam phía trước với là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
3. Luận điểm 3: Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi, thân quen giữa những người lính qua các thời kì.
Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ Phạm Tiến Duật đều có chung một nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời chống Mĩ đã được trau rèn, huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã vững vàng nay lại vững vàng hơn.
– Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống người lính nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người lính, còn Phạm Tiến Duật thì lại tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù của những người lính lái xe.
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về người lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật. Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc, độc đáo và đậm chất lính tráng. “Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó.
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm:những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe.Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên, mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Cách lý giải đơn giản,ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc .Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung “giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng.”
Trên những chiếc xe không kính,dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm.Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ.Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh,tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên. Nhịp thơ cân xứng,ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin,người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng “. Cử chỉ quá đỗi trìu mến, dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ .Và hơn thế nữa, nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành: Không có kính ừ thì có bụi /Bụi phun tóc trắng như người già.
“…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời.”
Điệp từ “ừ thì”, “chưa cần”,hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc “, giọng “cười haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái. Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh.Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái.Đường Trường Sơn gập ghềnh, mưa Trường Sơn như trút nước,mùa khô xe chạy bụi mù trời. Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi. Trên những chiếc xe không kính, tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Lạ lùng thay,như một khám phá bất chợt của nhà thơ,sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau, bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.”
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm. Những người lính không chỉ là đồng chí, đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình. Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng :
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.”
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra : “không đèn”, “không mui”, chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.Như vậy cả “không có” và “có “đều là tổn thất,đều là hư hại. Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh, hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù, mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường. Kì lạ thay:
“Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung, sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra. Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu, là con mắt, là bộ não, là linh hồn của xe. Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống, thành một khối thống nhất với người chiến sĩ. Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương. Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái.
Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ,đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả.
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước, hình ảnh những chiến sĩ lái xe vận tải đã “để thương để nhớ” cho tâm tưởng nhà thơ tài hoa Phạm Tiến Duật. Bởi vậy nên dẫu chẳng một ngày làm lính lái xe nhưng những trang thơ Phạm Tiến Duật luôn ầm ì tiếng động cơ chạy máy và giòn tan tiếng cười nói của những chàng lính lái xe “trẻ măng tơ” Người đọc khó có thể quên những chàng trai ngang tàng, tinh nghịch nhưng đầy lí tưởng ấy trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Bài thơ ra đời năm 1969, khi mà cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang bước vào những năm tháng khốc liệt nhất. Con đường Trường Sơn đã được khai phá để từng dòng người, dòng xe ngày đêm chi viện cho miền Nam ruột thịt. Trên những dặm đường loang lổ hố bom, trên những đèo cao trập trùng, hiểm trở,… dù ở đâu trên con đường huyền thoại ấy cũng hiện lên hình ảnh những anh lính lái xe vững vàng tay lái. Họ đến với chiến trường từ những giảng đường đại học, từ những mái trường phổ thông còn vương những cánh phượng rơi. Tâm hồn họ phơi phới tuổi xuân và những lí tưởng đẹp đẽ của tuổi trẻ. Trở thành những anh lính lái xe, họ đã làm vui, làm đẹp, làm vững chắc hơn cho con đường huyết mạch của cuộc kháng chiến.
Các anh tự giới thiệu về những người bạn đường thủy chung gắn bó của mình:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”…
Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: Những chiếc xe không kính. Mặt khác, lời giải thích của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe đã bị phá huỷ bởi “bom giật, bom rung” – những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu đầy ấn tượng cho bài thơ. Càng lạ lùng hơn nữa là hình ảnh chủ nhân những chiếc xe kì lạ ấy:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”…
Với các anh, sự lạ đối với mọi người lại trở thành sự thường trong đời sống. “Bom giật, bom rung” để lại thương tích loang lổ trên xe nhưng lại chẳng mảy may nhìn thấy dấu hiệu của tàn phá trên dáng hình người chiến sĩ. Họ “ung dung” ngồi, “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Sự khốc liệt của chiến tranh không khiến con người bị đui chột về tâm hồn và ý chí. Là những con người như lời đề trên bức tường kỉ niệm chiến thắng phát xít Đức của Hồng quân Liên Xô: “Nơi đây mọi sắt thép đều tan chảy chỉ con người là vững vàng đi qua”. Câu thơ ngắn, nhanh, điệp từ “nhìn” lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động.
Rồi trên con đường thần thánh ấy, các anh còn “nhìn thấy” bao điều khác nữa:
“Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”…
Bởi xe “không có kính” nên có quá nhiều bất tiện: “gió xoa vào mắt đắng” nhưng cũng bởi không có kính nên nhiều khi ngồi trong ca bin người lính được đón nhận những cảm giác thật lạ lùng: “Thấy con đường chạy thẳng vào tim /Thấy sao trời và đột ngột cánh chim / Như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh thơ rất táo bạo và khỏe khoắn thể hiện tâm hồn trẻ trung, mạnh mẽ nhưng không kém phần mơ mộng của những chàng lính lái xe.
Khi chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì “không có kính”
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Và:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời.
Thế nhưng, “không có kính” thì tác giả lại “có bụi” rồi có “mưa tuôn, mưa xối”. Cấu trúc thơ lặp đi lặp lại – “ừ thì” – đã làm toát lên thái độ bất chấp, không hề run sợ, coi thường mọi khó khăn. Câu thơ như vang lên tiếng cười vui vẻ, các anh cười để lạc quan yêu đời, để phớt lờ mọi khó khăn, cười để động viên mình, và động viên đồng đội. Và niềm lạc quan ấy còn được thể hiện bằng hành động.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Và :
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ vậy, họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn, khăng khít:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Bạn bè gặp nhau suốt đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết! Vậy mà giờ đây, trong gian khổ, họ thân thiết gắn bó, chào nhau như những người bạn đã quen. Và rồi, kỉ niệm như ùa về trong tâm trí nhà thơ. Có lẽ vì ông cũng là một người lính nên ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
“Gia đình” – hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết thống. Họ, những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng – dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Tuy chiếc xe có bị phá huỷ, nát tan đến mức nào, dù gian khổ khó khăn bao nhiêu, nhưng “chỉ cần trong xe có một trái tim” – Đúng vậy! Chính tình yêu Tổ quốc đã cầm lái, đã là động lực thúc đẩy, giúp những người lính có thêm sức mạnh trước mỗi khó khăn. Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch, gọn ghẽ. Câu thơ kết của bài thơ có lẽ là câu thơ hay nhất, vừa kết lại sức mạnh của con người chính là ở tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào và tình yêu hoá thành ý chí – kiên cường và vững bền. Nhưng đồng thời, nó cũng mở ra, gợi ra cánh cửa ánh sáng: Miền Nam, nơi mà đồng bào đang trông ngóng cách mạng trong từng khoảnh khắc.
Bài thơ có giọng điệu phóng khoáng, ngang tàng như tâm hồn chàng trai tuổi đôi mươi. Phạm Tiến Duật đã không phải dụng công gọt giũa ngôn từ, nhiều câu thơ trong bài thơ như lời nói hàng ngày nhưng chính sự giản dị, chân thành của cảm xúc đã làm nên những câu thơ lôi cuốn người đọc. Ngoài ra còn phải kể đến nhiều hình ảnh thơ táo bạo, giàu sức gợi tả cùng các điệp từ, điệp ngữ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hình ảnh ấy tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Chiến trường ác liệt, hiểm nguy mà tâm hồn các anh, các chị vẫn ngời ngời sự lạc quan, trẻ trung, yêu đời. Nhưng trên hết vẫn là tấm lòng yêu mến, thiết tha với đồng đội, với đất nước, vẻ đẹp tâm hồn cao quý gieo vào lòng người đọc niềm tin yêu, sự trân trọng, cảm phục và lời nguyện cầu tiếp bước. Khi xưa các anh các chị “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thì hôm nay thế hệ trẻ sẽ “chuẩn bị hành trang” đầy đủ để đưa đất nước tiến “vào thế kỉ mới” phát triển, sôi động và đầy thách thức.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
This post was last modified on 25/04/2024 19:23
Vận mệnh người tuổi Mùi theo cung hoàng đạo: Bạn có dễ thăng tiến không?
Hé lộ vận mệnh 12 con giáp tháng 12/2024: Những rủi ro nào đang rình…
Cẩm nang may mắn năm 2025 cho người tuổi Tý: Cơ hội đổi đời trong…
Tử vi hôm nay 4 con giáp ngày 26/11/2024 gặp nhiều may mắn, vận may…
Con số may mắn hôm nay 26/11/2024 theo tuổi sinh: Hãy chọn SỐ ĐÚNG để…
Tử vi thứ ba ngày 26/11/2024 của 12 con giáp: Tý xui xẻo, Mùi an…