Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao vừa được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé.
I. Mở bài
Bạn đang xem: Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
– Vài nét về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo
– Khẳng định trong truyện ngắn có một tình yêu nảy sinh giữa Chí Phèo và người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhưng không thể phủ nhận đó là nhân vật có vị tri quan trọng, it nhất, cũng coi Chí như một “con người” – Thị Nở
II. Thân bài
1. Ngoại hình
– Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”
+ Ngẩn ngơ: hành độngt hep bản năng
+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người
+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:
⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi
2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người
– Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở
+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:
+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”
+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại
+Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một ngườ với sự lương thiện trong căn tính
⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí
3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình
– Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng
– Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí
– Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”
– Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối
4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo
– Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo
+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác
+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí
+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát
⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo
III. Kết bài
– Khẳng định những nét nghệ thuật làm nên hình tượng nhân vật Thị Nở
– Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao trao tấm lòng trân trọng vào con người, đồng thời cũng phơi bày thực tế tàn bạo, khắc nghiệt của xã hội đẩy người nông dân vào bi kịch
Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và nhân vật Thị Nở
Thân bài
+ Giới thiệu về xuất thân của Thị Nở – Sinh ra trong làng Vũ Đại
+ Ngoại hình, diện mạo: Xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn, khuôn mặt của Thị xấu đến mức không có thể ngôn ngữ nào tả được: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”
+ Qua các chi tiết đó có thể nói diện mạo của Thị Nở vô cùng xấu xí, diện mạo để lại cho người đọc cả tiếng cười trào phúng thông qua các nhân vật trong câu chuyện.
+ Tính cách: Nam Cao đã miêu tả tính cách của Thị bằng những chi tiết sau: “Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”
+ Ngoài ra khi phân tích đến nhân vật Thị Nở người đọc thường dựa trên những đặc điểm về ý nghĩa tác phẩm và biểu hiện tình người trong nhân vật này.
+ Thị Nở đến với Chí Phèo như một cái duyên, chính nhờ tình yêu đó mà làm cho Chí mong muốn trở thành người lương thiện, Chí muốn được hoàn lương
+ Chi tiết bát cháo hành là ngụ ý để nói đến tấm lòng nhân đạo, biết yêu thương con người của Chí Phèo, bát cháo hành là biểu hiện tình yêu mà Thị Nở dành cho Chí, hơn nữa nó cũng nói lên tình yêu thương giữa con người với con người.
+ Chính bát cháo hành và tình yêu mà Thị Nở dành cho Chí mà giúp tâm hồn của Chí bừng tỉnh, mong muốn trở thành người lương thiện.
+ Với cách miêu tả tinh tế, tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Thị Nở để qua đó nói lên tinh thần nhân văn, nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.
Kết bài:
Thị Nở là nhân vật điển hình trong tác phẩm, với tính cách điển hình nhân vật này hiện lên với những đặc điểm nổi bật, truyền tải nhiều nội dung tư tưởng, ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
“Chao ôi! Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia,thoát ra từ kiếp lầm than”. Ấy là tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép của Nam Cao – cây bút hiện thực xuất sắc của văn học giai đoạn 1930 – 1945. Với quan điểm đó, Nam Cao viết nhiều về tầng lớp nông dân với những bi kịch cuộc sống. Nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” chính là điển hình cho những con người cùng khổ.
Thị Nở hiện lên trước hết ở chân dung xấu xí. Cái xấu ấy được Nam Cao miêu tả là “Ma chê quỷ hờn”. “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành”. Không chỉ thô kệch về ngoại hình, Thị Nở còn vừa nghèo vừa ngớ ngẩn. Cái nghèo đeo bám Thị Nở. Công việc gánh nước thuê chỉ đủ kiếm sống qua ngày. Không chồng, không con, lại ở với người cô già nên Thị Nở cũng không được ai yêu thương. Dường như tạo hóa đã dành những phần vụng về, thừa thãi nhất để tạo ra thị . Nam Cao ít khi miêu tả kĩ lưỡng ngoại hình nhân vật nhưng ở đây, nhà văn đã dụng công khắc họa chân dụng Thị Nở để làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn đáng trọng.
Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau là cái duyên. Hai kẻ đứng bên lề xã hội, chịu đựng sự ghẻ lạnh từ người ngoài đã tìm thấy ánh sáng nơi nhau. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Chí Phèo mà Thị Nở bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp. Ở Thị Nở, ta tìm thấy sự lương thiện, trong sáng. Thị thản nhiên gánh nước trên lối nhỏ qua vườn nhà Chí và còn vô tư nằm ngủ trong cái chòi rách của hắn. Ban đầu, thị còn giật mình, sợ hãi vì sự xuất hiện của Chí. Thị la làng. Chí Phèo thấy thế bèn lấy làm lạ, hắn cũng la lên vì ở làng Vũ Đại, làm gì có ai dám tranh la làng với hắn. Thế rồi, Thị Nở cũng bật cười. Chúng cười với nhau và say ngủ bên nhau. Có thể thấy, chính sự ngờ nghệch, hồn nhiên của Thị Nở đã kéo hai người lại gần nhau hơn. Trong khi mọi người ghê tởm, xa lánh Chí Phèo thì thị vẫn đi qua vườn nhà Chí, thậm chí có lần còn xin hắn ít rượu thuốc đem về. Thị không hiểu sao người ta lại ghê hắn đến vậy. Thị Nở đã nhìn ra những điều khuất lấp đáng thương ở con quỷ của làng Vũ Đại.
Thị Nở còn là người phụ nữ có tấm lòng nhân hậu, giàu tình thương. Sau đêm ăn nằm với Chí, Thị Nở không bỏ đi mà còn ở lại chăm sóc Chí Phèo khi hắn gặp trận ốm nặng. Từng cử chỉ, hành động của thị dù giản đơn nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn với Chí. Thị đắp cho hắn manh chiếu, về nhà kiếm ít hành nấu cho hắn bát cháo. Bát cháo hành là hiện thân của đức hi sinh, sự cảm thông, tình yêu thương thuần khiết. Chí Phèo cảm động một cách kì lạ vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Bao nhiêu khát khao hạnh phúc về gia đình ấm êm lại ùa về trong Chí. Chỉ nhờ bát cháo hành mà Thị Nở đánh thức sự lương thiện tưởng như đã mất của Chí Phèo. Từ đó, Chí thấy cuộc đời xung quanh trở nên đẹp hơn, hắn mong muốn quay lại làm người một cách đúng nghĩa.
Khát khao hạnh phúc không chỉ tồn tại ở Chí mà còn xuất hiện ở chính Thị Nở. Thị cũng khát khao được yêu thương, trân trọng. Thị nghiêm túc suy nghĩ về việc xây dựng một gia đình nhỏ với Chí Phèo. Tình yêu khiến cho con người đẹp lên. Thị không còn là người đàn bà dở hơi, Chí không còn là kẻ rạch mặt ăn vạ. Những ngày tháng ấy là những ngày đẹp đẽ, mơ mộng nhất cuộc đời Thị Nở.
Như những nhân vật điển hình trong sáng tác của Nam Cao, ở Thị Nở vẫn tồn tại sự mâu thuẫn, giằng xé khi đấu tranh cho tình yêu. Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ. Cuộc tình ấy kéo dài đến ngày thứ sau thị bỗng nhớ ra hôm nay người cô sẽ về. Thị phải “dừng yêu” để thưa chuyện với bà cô. Ai dè, thứ thị nhận được là lời độc địa: “Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!”. Điều ấy khiến Thị Nở tức giận nên thị trút lên Chí Phèo tất cả lời bà cô rồi ngoay ngoáy mông đít đi ra về. Chí Phèo đuổi theo thị, nắm lấy tay để níu giữ tình yêu nhưng Thị Nở vẫn bỏ đi như quên hết mọi thứ. Tác phẩm kết thúc một cách bi kịch bằng cái chết của Chí Phèo và hình ảnh cái lò gạch cũ bỗng xuất hiện trong tâm trí Thị Nở.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo, tình huống truyện gay cấn, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Thị Nở. Dù tác phẩm có một kết thúc đau thương nhưng không thể phủ nhận những phẩm chất đáng trọng ở Thị Nở. Thị là người phụ nữ giàu tình thương, trong sáng, biết cảm thông. Bất chấp ngoại hình xấu xí hay sự gàn dở trong đầu óc, Thị Nở vẫn là nguồn sáng lấp lánh vụt qua cuộc đời Chí Phèo.
Từ nhân vật Thị Nở, Nam Cao bày tỏ niềm thương cảm trước cuộc đời khổ sở về cả thể xác lẫn tinh thần của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Đồng thời, nhà văn thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ. Tác phẩm còn là lời tố cáo đanh thép tội ác của bọn thực dân phong kiến.
Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.
Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.
Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.
Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.
Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả”.
Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”
“Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.
Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.
Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.
Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.
Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.
Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.
Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.
Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).
Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát chào hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.
Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng mình cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.
Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.
Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…
Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.
Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.
Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.
Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.
Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrangxoa Cope)
Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo” là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.
Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật “cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn…Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…” Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. “Đã thế thị lại dở hơi…Và thị lại nghèo…Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”. Thế nên, Thị Nở không có chồng và “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm”.
Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.
Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng…Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”. Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.
Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.
Xem thêm : Top 5 cuộc thi hoa hậu lớn nhất thế giới
Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dũ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở – người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.
Với tác phẩm “Chí Phèo”, người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một “con quỷ dữ”, thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.
Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.
Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn “Chí Phèo” bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.
Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.
Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phát thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: “trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị…Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả”. Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và “nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã” thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.
Tuy chỉ là nhân vật rất phụ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn “Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành “mới thơm làm sao” chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.
Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian “giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng” (Còn có dị bản “giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng”). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của “con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời” “sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt…Nhục nhã ơi là nhục nhã”. Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, “xỉa xói vào mặt con cháu gái” đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn “chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến”. Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ “không ăn được thì đạp đổ”, “trâu buộc ghét trâu ăn”. Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : “Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm…” Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.
Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng “người” ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao”, tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện “vợ chồng” với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí “Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo” đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.
Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật náy đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.
Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?
Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi… lúc nào cũng cứ “vô tâm” như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).
Thì đây, sau lần “ăn nằm” với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi “ngoay ngoáy cái mông đít” ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở – Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo – tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo – chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi… Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!
Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một – đi ở tù, lần hai – tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất “nhân chi sơ, tính bản thiện” của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng – lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.
Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.
Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.
Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là “xấu ma chê quỷ hờn”. Với diện mạo được tác giả miêu tả “Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu”. Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.
Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví ” xấu như Thị Nở”, chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.
Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.
Ngay trong đem trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.
Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.
Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xâu dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.
“Chí Phèo” là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao phản ánh nỗi thống khổ của người nông dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật Chí Phèo nhưng bên cạnh đó nhân vật phụ thị Nở cũng có vai trò quan trọng trong truyện. Bởi thị tuy xấu xí về ngoại hình nhưng đẹp về nhân cách, là người thức tỉnh lương tri bị ngủ quên trong Chí, thị Nở trở thành kiểu nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học.
Nhân vật thị Nở xuất hiện trong hoàn cảnh một đêm trăng thanh ả đi gánh nước rồi ngủ quên bên bụi chuối cạnh nhà Chí. Anh Chí vừa uống rượu say bên nhà tự Lãng vô tình gặp “một người đàn bà ngồi tênh hênh” với bản năng của người đàn ông cùng bát cháo hành tình yêu của thị Nở là cầu nối vô hình để Chí hoàn lương.
Thị Nở xuất thân là con nhà nghèo không còn ai thân thích ngoài bà cô già cũng không chồng như thị. Hai cô cháu sống trong một cái nhà tre, thị sống bằng nghề lặt vặt ở làng, chủ yếu là gánh nước thuê kiếm ăn. Đã nghèo lại còn xấu và ngẩn ngơ. Có lẽ thị là nhân vật nữ xấu nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà nhà văn miêu tả.
“Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy” nghèo, xấu, ngẩn ngơ tạo thành ba đỉnh tam giác không nhân vật nào có được như thị. Ngòi bút của ông thật tài tình khi miêu tả gương mặt: “Một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” chỉ bốn từ “Ma chê quỷ hờn” ta có thể hình dung ra cái mặt của thị là một sự mỉa mai của hóa công khiến cho người ta sợ hãi và lảng tránh bởi dòng giống con nhà mả hủi.
Không phải Nam Cao bôi nhọ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt, phải chăng đây cũng là một dụng ý nghệ thuật tác giả để thị như vậy mới “sánh” được với Chí Phèo-một thằng lưu manh chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ. Khác với cách miêu tả nhân vật truyền thống là ngoại hình bên ngoài phải ăn nhập với nhân phẩm bên trong nhưng thị đi ngược lại hoàn toàn với điều đó.
Thị Nở – người đàn bà xấu về ngoại hình nhưng lại có nhân cách tốt đẹp, đáng trân trọng. Thị đã dành tình yêu thương chân thành, mộc mạc cho Chí khi đã ngủ cùng hắn trong đêm trăng thanh dưới bụi chuối hai linh hồn cô độc đã tìm về để sưởi ấm cho nhau. Thị đã dìu Chí vào trong túp lều xộc xệch sau trận nôn mửa lúc nửa đêm, tình yêu bắt đầu chớm nở từ bát cháo hành.
Chí ngạc nhiên và cảm động vô cùng bởi đây là lần đầu tiên hắn được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Chính thị đã khiến Chí tỉnh lại sau bao cơn say triền miên vô tận. Ăn bát cháo bát cháo hành từ tay thị Nở hắn bỗng nhận ra rằng: “cháo hành rất ngon, bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây thù?” bát cháo ấy là hương vị của hạnh phúc của tình thương chân chất những con người nghèo khổ dành cho nhau.
Trong mắt của kẻ say tình lúc này thị Nở bỗng trở nên có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Phải chăng ấy là cái duyên ngầm bấy lâu đã bị xã hội vùi dập nay mới có cơ hội thể hiện ra bên ngoài. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra điều đó qua cái nhìn của một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Thị còn là người cho Chí hy vọng được hoàn lương, mong muốn làm người lương thiện, khao khát trở lại với cuộc đời bình thường: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao… thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không được” thị chính là cầu nối giữa hắn với mọi người, thị là người cứu rỗi linh hồn tội lỗi đưa nó trở về với bản chất lương thiện.
Lúc này Chí mong muốn có được hạnh phúc gia đình bình dị như mơ ước khi còn là một anh canh điền hiền lành“Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thị Nở đã đánh thức lương tri làm người bị ngủ quên, bị khuất lấp trong con người Chí để giờ đây trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt.
Nhưng thị lại không phải người tỉnh táo bình thường mà lại là đứa ngẩn ngơ, kẻ dở hơi nên hạnh phúc ngắn ngủi trôi qua, tình yêu bị tắt ngấm khi cô ả dở chứng về hỏi ý kiến bà cô. Bà cô già – đại diện cho định kiến xã hội phản đối kịch liệt chuyện tình đôi lứa Chí Phèo và Thị Nở đồng nghĩa với việc “Con đường làm người của Chí vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại”. Chí bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội bất công bất lương đẩy đến mức đường cùng phải tự sát sau khi giết Bá Kiến.
Tuy nhân vật thị Nở chỉ xuất hiện ở đoạn cuối tác phẩm nhưng đã cho Chí những phút giây hạnh phúc, những ngày được sống đúng với bản chất lương thiện. Thị Nở là hiện thân của tình người. Và chỉ có tình người, tình yêu mới có thể cảm hóa được con quỷ dữ trong người Chí Phèo. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cũng thật mong manh dễ vỡ khi con người ta không biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ.
Qua nhân vật thị Nở nhà văn để lại cho độc giả giá trị nhân đạo sâu sắc chỉ có tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim mới có sức mạnh kì diệu cảm hóa được con người tội lỗi. Qua đây ta cũng có được bài học nhận thức đúng đắn đừng “Nhìn mặt mà bắt hình dong” ngoại hình bên ngoài tuy xấu xí nhưng chỉ cần bên trong con người có tình thương yêu, nhân hậu và biết quan tâm đến người khác thì họ cũng rất đẹp, rất đáng được trân trọng và được yêu thương. Ở ngoài kia có biết bao người nhan sắc xinh đẹp nhưng chưa chắc họ đã có được tấm lòng tràn ngập tình thương như thị Nở.
Thị Nở tuy chỉ là nhân vật phụ xuất hiện trong chốc lát nhưng thị là ngọn lửa sưởi ấm và thắp lên ánh sáng lương tri làm người trong Chí, nhân vật mang lại giá trị nhân văn cho tác phẩm “Chí Phèo”. Dù thị xấu xí, nghèo khổ nhưng tràn ngập tình thương đó là phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt. Gập lại trang sách bấy lâu nhưng hình tượng nhân vật thị Nở cùng mối tình bất hạnh với Chí Phèo vẫn ám ảnh trong suy nghĩ và tâm hồn của độc giả.
Người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn, nhà thơ của nền văn học Việt Nam, cũng như của thế giới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hiếm có hình tượng người phụ nữ nào lại độc đáo như nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.
Chính bằng sự sắc sảo trong ngòi bút miêu tả về ngoại hình, tính cách cũng như những ý nghĩa nhân văn đằng sau cách xây dựng nhân vật của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành hình tượng độc nhất, để lại ấn tượng hết sức sâu đậm trong lòng độc giả.
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực phê phán những năm 1930-1945. Bởi vậy, ngòi bút xuất sắc này đã lột tả những gì “trần truồng” nhất của xã hội hiện tại, dành những chi tiết sống động, độc đáo nhất cho nhân vật của mình – những người nông dân điển hình thời bấy giờ.
Nếu Chí Phèo có “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”, thì Thị Nở lại xuất hiện với cái mặt “ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài”, “cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh”, “hai môi dày được bồi cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách”, “cái răng rất to lại chìa ra”….
Đoạn miêu tả ngoại hình của Thị Nở trong truyện ngắn này của Nam Cao quả thật rất xuất sắc. Ông sử dụng những tính từ mạnh, miêu tả chi tiết từ “cái mặt”, “cái mũi”, “cái môi”, “cái răng”, lột tả được ngoại hình “xấu ma chê quỷ hờn”, “sự mỉa mai của hóa công” của Thị Nở.
Không chỉ sở hữu một ngoại hình khiến cho “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm” mà Thị Nở lại còn nghèo, dở hơi và “thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi” và thị không có chồng. Nam Cao đã xây dựng một nhân vật vừa đáng cười, vừa đáng thương, đáng tội nghiệp, đại diện cho số phận của người phụ nữ nông dân của tầng đáy xã hội.
Quả thật, hình tượng Thị Nở trong truyện ngắn này là độc nhất và cách miêu tả, xây dựng nhân vật của Nam Cao cũng độc đáo không kém. Thị Nở xấu “ma chê quỷ hờn”, dở hơi ấy lại tình cờ gặp được Chí Phèo – “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, để rồi hai con người ấy đem lòng yêu nhau, cái tình yêu không kém phần lãng mạn, bi kịch và cũng đầy ắp những ý nghĩa nhân văn.
Có lẽ qua ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở không có vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” như Thúy Kiều của Nguyễn Du, hay “vẫn mơn mởn như gái mười tám” như Chị Dậu của Ngô Tất Tố (trong Tắt đèn) nhưng cô lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng, vẻ đẹp đã cứu rỗi, thức tỉnh phần người, thức tỉnh khao khát được hoàn lương trong Chí Phèo.
Thị Nở nghèo, ngớ ngẩn, dở hơi, nhưng thị vẫn là một người phụ nữ chăm chỉ. Thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng, “luật quật đập đất từ trưa tới giờ” để rồi ngủ quên ngay gốc chuối. Thị dở hơi, “đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất”.
Nhưng có lẽ, chính vì dở hơi mà Thị ngày nào cũng qua vườn nhà Chí hai ba lần để rồi thành thói quen, thậm chí “vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa” hay “ xin của hắn một ít rượu về để bóp chân” và “lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế”.
Có lẽ cả cái làng Vũ Đại, chỉ mình Thị Nở không sợ Chí Phèo, chỉ thị mới chăm sóc cho hắn khi hắn ốm, chỉ thị mới nấu cháo hành và “làm thành một cặp rất xứng đôi” với Chí mà thôi. Và có lẽ cũng chỉ có Thị mới khiến cho một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ phải sợ già, sợ đói rét, ốm đau và sợ cô độc. Dường như bên trong cái vẻ bề ngoài xấu xí, ngớ ngẩn ấy, người phụ nữ này còn chứa đựng những nét đẹp không nói thành lời.
Vào buổi sáng sau khi gặp Chí ở bờ sông, Thị cắp một cái rổ, trong có một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Các nhà phê bình văn học từ trước đến này vẫn khẳng định rằng chi tiết nồi cháo hành là một chi tiết hết sức đắt giá, đó không chỉ là nồi cháo ăn lúc bị ốm, mà còn là tình thương, tình yêu của người phụ nữ xấu xí nhưng thật thà, chất phác. Chính tình thương, tình yêu ấy đã khiến cho một Chí Phèo cũng biết ước mơ về gia đình, khiến cho kẻ rạch mặt ăn vạ cũng “cười nghe thật hiền” và một Thị Nở “xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”.
Quả thật tình yêu của Chí và Thị Nở không chỉ đơn thuần là tình yêu của hai con người mà nó còn thể hiện cho ước mơ được hạnh phúc, ai cũng xứng đáng yêu và được yêu, kể cả những con người bần cùng nhất trong xã hội. Có lẽ không có Thị Nở, Chí Phèo vẫn mãi ở trong đống bùn lầy của xã hội, không một tia hi vọng, không ánh sáng. Và chỉ khi có được sự chăm sóc, tình yêu của Thị Nở, khát khao được hoàn lương trong Chí mới dữ dội đến như vậy.
Thế nhưng có lẽ trong cái xã hội thời bấy giờ, tình yêu, ước mơ được hạnh phúc ấy vẫn không thể chiến thắng được những định kiến, những bất công. Chỉ vì những định kiến mà Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt bởi “ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”, Chí vì bị Thị Nở từ chối mà uống rượu rồi vác dao sang nhà Bá Kiến ăn vạ đòi lương thiện, đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Màu sắc hiện thực phê phán thể hiện rất rõ ở chi tiết này. Người nông dân lương thiện bị bần cùng hóa, tha hóa, mong muốn được hoàn lương nhưng lại không có lối thoát bởi xã hội quá bất công. Nam Cao quả thật đã rất thành công khi tái hiện xã hội lúc bấy giờ.
Có lẽ Thị Nở không phải là người phụ nữ xinh đẹp, thậm chí xấu ma chê quỷ hờn nhưng đã để lại ấn tượng hết sức sâu sắc cho người đọc. Thị là người phụ nữ hiền lành, chất phác nhưng cũng rất giàu tình thương, với khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh liệt.
Chính cái nét duyên thầm và tình yêu của người phụ nữ này đã cảm hóa, thức tỉnh khao khát hoàn lương mãnh liệt của Chí Phèo. Quả thật, Nam Cao xứng đáng là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học nước nhà khi khắc họa hình tượng Thị Nở sống động và đầy tính nhân văn như vậy.
Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Tác giả đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình là Chí Phèo. Qua nhân vật này ông gửi gắm khát vọng rất đỗi bình dị của con người nhưng lại đi vào bế tắc. Nếu Chí Phèo vừa đáng trách, vừa đáng thương thì Thị Nở lại là nhân vật để lại nhiều ám ảnh đối với người đọc.
Thị Nở trong từng trang viết của Nam Cao là người con gái xấu xí, ngẩn ngơ đến nỗi “ma chê quỷ hờn”. Không phải Thị Nở nghiễm nhiên bước vào trang truyện của Nam Cao, đó chính là dụng ý nghệ thuật cũng là dụng ý nhân văn mang ý nghĩa sâu xa. Đó cũng chính là tấm lòng của Nam Cao dành cho Chí Phèo. Hắn sinh ra không có ai thân thiết, bị người đời gạt bỏ; chỉ có Thị Nở đối với hắn tốt như vậy. Thị Nở chính là người có thể kéo Chí Phèo ra khỏi vũng bùn tăm tối
Thị Nở được Nam Cao xây dựng rất kì công từ hình thức đến tâm hồn. Đó là một người đàn bà có ngoại hình xấu xí, vừa xấu vừa ngớ ngẩn. Cái xấu của Thị Nở được Nam Cao gói gọn trong 4 từ “ma chê quỷ hờn”. Chỉ 4 chữ đó đã có thể khiến người đọc hình dung ra “dung mạo” người phụ nữ làng Vũ Đại này. Người ta vẫn bảo ở đời ít người vừa xấu xí, vừa nghèo, vừa ngớ ngẩn. Nhưng thực ra Thị Nở lại mang trong mình cả 3 điều đó.
Không phải Nam Cao không yêu thương nhân mình của mình, chỉ là ông yêu họ theo một cách khác, đặc biệt hơn, như chính con người của họ. Chỉ có như thế Thị Nở mới có thể sánh với CHí Phèo, những người cùng cảnh ngộ. Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị, vì ngoại hình thô kệch và nghèo. Thị đi gánh nước thuê để kiếm sống qua ngày. Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương.
Có lẽ đây chính là dụng ý của Nam Cao khi để Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau. Những kẻ cùng đường trong xã hội đến với nhau, yêu thương nhau, có thể chỉ trong phút chốc nhưng cũng gọi là có được tình yêu. Thị Nở là người đàn bà nghèo, xấu xí, tính tình ngẩn ngơ nhưng lại có một tấm lòng trong, rất sáng, là tình yêu thương người. Có lẽ đây chính là điều mà Nam Cao muốn gửi gắm, nhắn nhủ đến mọi người.
Nhân vật thị nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dành cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm tình yêu, đoạn văn đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội. Thị Nở thương Chí Phèo, một tình thương xuất phát từ trái tim, lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi, không cá nhân. Chỉ đơn giản đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Hắn cần Thị, cả cuộc đời hắn cần thị như thế.
Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau trong cái đêm hôm ấy, đêm Chí Phèo say rượu, họ sống như vợ chồng suốt mấy ngày. Bát cháo hành là động lực, là sợi dây kết nối tình cảm giữa Thị Nở và Chí Phèo. Có thể nói Thị Nở và bát cháo hành là cứu cánh cho cuộc đời của Chí Phèo về sau.
Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Thị Nở giữa những trang truyện chỉ toàn đau thương và oán hận của Chí Phèo. Thị Nở chính là tia sáng, đánh thức và khơi gợi lương tâm của Chí Phèo những ngày cuối cùng của cuộc đời. Chí ít dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì Chí cũng đã cảm nhận được như thế nào là tình yêu, là tình người. Thị Nở là hiện thân của sự khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh liệt, không vụ lợi. Đó là tình cảm mà Chí Phèo luôn khát khao nhưng lại không có được.
Nam Cao đã để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh về nhân vật Thị Nở. Là người có thể làm thay đổi Chí Phèo, cũng là người mang lại yêu thương nhỏ nhoi, ít ỏi cho Chí. Đây chính là giá trị nhân văn của truyện ngắn Chí Phèo.
Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã hạ bút những dòng này: “Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy”. Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thì chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?
Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi… lúc nào cũng cứ “vô tâm” như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).
Thì đây, sau lần “ăn nằm” với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi “ngoay ngoáy cái mông đít” ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở – Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo – tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo – chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi… Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!
Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một – đi ở tù, lần hai – tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất “nhân chi sơ, tính bản thiện” của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng – lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng. Thế mới biết Nam Cao thương nhân vật của mình biết mấy!
Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và ngẩn ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi, hoặc không xấu tí nào cũng được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả diện mạo lẫn tâm hồn?
Thi pháp truyện truyền thống khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một tính cách: Ngoại hình và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ… Cô Tấm đã đẹp là đẹp hết từ trong ra ngoài. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu trong Bước đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử chỉ, điệu bộ, lời nói đã xấu xa thì phẩm cách cũng không ra gì… Nhưng đến Nam Cao, ông tiến hành ngược hẳn, và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng tâm hồn đẹp (mụ Lợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được che đậy bởi mã ngoài khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn…), hoặc chỉ nội một phương diện tâm hồn thôi cũng vừa có đẹp, vừa có xấu (Điền, Hộ, Thứ – các nhân vật trí thức)… Ông đã nhận thức con người với tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo nguyên tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên – loại nhân vật là một khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam Cao đã triệt để đi theo nguyên tắc này.
Thêm nữa, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không chỉ nhận thức thực tại qua và chỉ qua những nhân vật mang ý nghĩa điển hình xã hội với tư cách là đại diện tiêu biểu của một chủng loại người, mà còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ, dị biệt (nhiều khi oái oăm, trái khoáy) của cuộc đời. Những thứ ấy không phải là nhiều, nhưng rõ ràng đã có, từng có. Chúng được thể hiện ở cấp độ chi tiết, hình ảnh, tình huống truyện… và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu thân phận Lão Hạc, Bá Kiến, Thứ, Điền… có nhiều trong thực tại, chứ còn Lang Rận, Mụ Lợi, Trương Rự, thì chỉ là cá biệt, không tiêu biểu. Thị Nở cũng là một mảnh vụn dị biệt và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người không ngại, và nhiều khi tỏ ra đầy nhiệt hứng sục sạo vào những chỗ lồi lõm, nham nhở của cõi người.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng đột xuất. Truyện cổ Việt Nam không có một hình ảnh đàn bà nào như Thị Nở. Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, dân gian cũng đã có lần chê bai những người đàn bà thuần xấu xí: “Con gái Sơn Tây yếm thủng tày dần”, hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: “Lỗ mũi mười tám gánh lông…”. Ta còn có thể tìm thấy thêm những câu tục ngữ ca dao khác “kể xấu” về người đàn bà nữa. Vậy thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ, sành ngôn ngữ bùn đất quê kiểng như Nam Cao không thể không biết đến những bài ca “ngoa ngoắt” kiểu ấy.
Đến đây, câu hỏi trên kia có phần sáng tỏ. Rõ ràng, Nam Cao có chủ định, có quan niệm hẳn hoi khi xây dựng nhân vật của mình. Ông đã nhất quán từ đầu đến cuối để cho nhân vật Thị Nở của mình thậm xấu như vậy.
Hiểu được đúng và trả lại ý nghĩa cùng kích thước có tầm khái quát cho hình tượng nhân vật Thị Nở, một lần nữa tác phẩm Chí Phèo sẽ sống dậy với nhiều tầng nghĩa thú vị…
Mỗi một tác phẩm truyện đều nổi bật lên một nhân vật chính nhất, mỗi nhà văn cũng chỉ xây dựng cho mình một nhân vật điểm hình nhất trong tác phẩm thế nhưng để nổi bật lên nhân vật trung tâm ấy thì chúng ta còn phải biết đến những nhân vật xung quanh nhân vật đó. Dù là phụ nhưng nhân vật ấy vẫn hiện lên đầy ý đồ nghệ thuật của tác giả. Nếu như nhân vật người đàn ông đánh vợ tỏng chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu tuy là phụ nhưng cũng chất chứa những phản ánh của tác giả về cuộc sống thì Nam Cao cũng xây dựng thành công nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo để thể hiện những cái nhìn chủ quan của mình về những con người xấu xí.
Nhân vật Thị Nở là nhân vật được nhà văn xây dựng cho nhân vật Chí Phèo của mình, tuy rằng Thị giở hơi mả hủi nhưng lại mang đến cho nhân vật chính của nhà văn Nam Cao những khoảng thời gian hạnh phúc. Nói tóm lại trong những cái giở nhất của Thị Nở nhà văn Nam Cao đã cho ta thấy được những cái đẹp nhất của Thị.
Trước hết Thị Nở hiện lên với ngoại hình vô cùng xấu xí và có nguồn gốc mả hủi, giở hơi. Nói chung nhìn toàn thể Thị không có gì có thể mê nổi. Cũng giống với những nhà văn khác Nam Cao không che giấu những cái xấu cái giở của nhân vật mình mà nói hẳn ra và dùng những lời lẽ thật nhất thậm chí là thô thiển nhất để nói về nhân vật của mình. Nói như thế không phải nhà văn không yêu nhân vật của mình mà làm như thế để qua đó bạn đọc có một cái nhìn chân thật nhất về những con người như thế trong xã hội. Thị Nở ở đây cũng được nhà văn dùng những lời chân thật nhất để miêu tả độ xấu của cô. Theo như Nam Cao thì Thị có cái vẻ bề ngoài vô cùng xấu xí “ cái môi thì dày như hai con đỉa trâu” đã thế thì lại còn lại còn bĩu môi nữa thì không hiểu là Thị xấu như thế nào. Bề ngoài của Thị được nhà văn tóm lại trong bốn từ “ma chê quỷ hờn”. Nhà Thị ngoài Thị con có bà cô già mãi cũng không lấy được chồng và đến đời Thị cũng không hề hơn cũng xấu xí và mả hủi. Đã thế Thị còn ngẩn ngơ giở tính nữa, tính tình như thế thì làm sao có thể có chồng được cơ chứ.
Không những thế Thị Nở còn là một cô gái nghèo. Thị là một cô gái ở làng Vũ Đại vì xấu cho nên ai cũng biết đến thị như biết đến Chí Phèo vậy. Thị không có việc làm ngày ngày thị thường đi gánh nước thuê cho những nhà có việc. Công việc ấy tuy không giàu có gì nhưng ít ra Thị cũng biết lao động và có công việc đàng hoàng chứ không như chàng Chí.
Như vậy đấy, Nam Cao xây dựng nhân vật của mình qua xuất thân, bề ngoài và nghèo đói ấy đấy. ta có thể thấy rằng Thị như một người bị bao vậy giam hãm trong cái tam giác ba cạnh của nghèo đói, xấu xỉ và mả hủi. Thế nhưng trong cái con người hội tụ tất cả những cái xấu ấy lại có một tâm hồn lòng tốt thương người.
Có thể nói Nam Cao xây dựng nhân vật này cho Chí Phèo như một nhân ái mà nhà văn cho nhân vật mình. Thị tuy xấu nhưng đúng là chỉ có người xấu như thế mới yêu Chí Phèo mà thôi. Có thể nói người phụ nữ ấy tuy xấu nhưng lại có một tấm lòng của con người mà những con người trong làng Vũ Đại không có và không thể đem đến cho Chí.
Thứ nhất Thị là người có tấm lòng thương người, lòng thương ấy xuất phát từ những gì sâu thẳm trong lòng Thị. Thị thương Chí Phèo- một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo say rượu và cái đêm mà Thị cùng Chí trao cho nhau những khoảnh khắc của vợ chồng. Thế nhưng cái đêm ấy cũng khiến cho Chí bị cảm lạnh vì gió. Sáng hôm sau Chí tỉnh dậy toàn thân mệt mỏi dã dời thế nhưng Thị đã đã mang bát cháo hành đến để giải cảm cho Chí.
Có thể nói điều đó xuất phát từ lòng tốt của một con người dành cho một con người. Chính bát cháo hành tưởng chừng nhỏ nhoi ấy đã khiến cho Chí mủi lòng và bừng tỉnh. Chính vì lẽ ấy mà bát cháo hành trở thành một chi tiết nghệ thuật trong truyện ngăn của nhà văn Nam Cao. Bát cháo hành như thay lời muốn nói của Thị, chính hành động ấy mà Chí bừng tỉnh mà mong muốn làm người lương thiện.
Thứ hai, trong Thị Nở còn toát lên một vẻ đẹp của tình yêu đôi lứa. Thị yêu Chí phèo xuất phát từ lòng thương người của Thị. Chính tình cảm ấy đã khiến cho Chí nhớ đến ước muốn nho nhỏ của mình ngày xưa và cũng chính tình cảm ấy mà Chí thấy cảm động ươn ướt. Thị giống như mẹ của Chí và hắn muốn sà vào lòng Thị mà nũng nịu như một đứa trẻ. Chí muốn làm người lương thiện, muốn có một mái ấm gia đình với cô gái xấu xí ấy qua câu “ Hay mình chuyển sang đây với tớ một nhà cho vui”.
Xem thêm : Fructozơ có tác dụng với NaOH không
Qua đây ta thấy được nhà văn Nam Cao không chỉ xây dựng thành công nhân vật chính mà xây dựng nhân vật phụ như Thị Nở cũng để lại nhiều ấn tượng cho bạn đọc. Nó đề cao quan niệm “cái nết đánh chết cái đẹp” của ông cha ta xưa nay. Thị tuy xấu, tuy nghèo nhưng Thị đã làm nên một việc mà không một ai trong làng Vũ Đại có thể làm được đó chính đánh thức phần người trong Chí và đưa anh lại con đường của những con người lương thiện.
Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao về sự khốn khổ của người lao động dưới thời thực dân và phong kiến. Tác phẩm thành công với việc xây dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo nhưng bên cạnh đó nhân vật phụ thị Nở cũng có vai trò đặc biệt trong truyện. Bởi thị dù xấu xí ở ngoại hình song đẹp về tâm hồn và là người đánh thức lương tri bị ngủ quên trong Chí nên thị Nở trở thành mẫu nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nhân vật thị Nở xuất hiện trong hoàn cảnh một đêm trăng thanh ả đi bán hàng về ngủ quên bên bụi chuối cạnh nhà Chí. Anh Chí vừa uống rượu về bên nhà tự Lãng vô tình bắt gặp “một người đàn bà ngồi đó” với hình bóng của người chồng và bát cháo hành tình yêu của thị Nở là động lực lớn giúp Chí tỉnh ngộ.
Thị Nở xuất thân là con nhà nghèo không có ai thân thích và bà cô lão cũng không chồng như ả. Hai cô cháu sống trong một cái nhà tre, thị sống nhờ công việc vặt ở chợ, phần lớn là bán hàng mướn kiếm ăn. Đã nghèo lại càng xấu và ngẩn ngơ. Có lẽ thị là nhân vật phụ nữ xấu nhất của lịch sử văn học Việt Nam được nhà văn miêu tả.
“Người Việt Nam không ai sợ kẻ khác đụng vào sự xấu, cái nghèo và ngẩn ngơ của mình, còn thị thì chỉ có ba cái đó” nghèo, xấu, ngẩn ngơ biến thành hình ba đỉnh tam giác không nhân vật nào có được bằng thị. Ngòi bút của ông rất tài tình khi miêu tả gương mặt: “Một người ngẩn ngơ như những người ăn mày trong truyện cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” với bốn từ “Ma chê quỷ hờn” ta có thể mường tượng thấy cái đẹp của thị là một sự mỉa mai của nam cao khiến cho người khác sợ phải tránh né theo kiểu con nhà mả hủi.
Không phải Nam Cao ca ngợi cái nết của người phụ nữ Việt, nhưng đây cũng là một dụng ý nghệ thuật tác giả vì thị như thế mới “sánh” được với Chí Phèo-một thằng lưu manh chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ. Khác với lối miêu tả nhân vật dân gian là ngoại hình bên bề ngoài không ăn khớp với tâm hồn bên trong nhưng thị làm ngược hẳn với suy nghĩ đó.
Thị Nở – người đàn bà xấu ở ngoại hình song vẫn có nhân cách cao đẹp và đáng kính trọng. Thị đã dành tình yêu thương chân thật, mộc mạc cho Chí khi đã ngủ với gã trong ánh trăng và dưới bụi chuối hai linh hồn cô độc đã trở về để ủ ấm bên nhau. Thị đã dìu Chí vào trong căn nhà tồi tàn vì cơn say lúc nửa đêm và tình yêu bắt đầu bừng sáng từ bát cháo hành.
Chí ngạc nhiên và xúc động lắm vì đây là lần đầu tiên hắn được chăm sóc từ tay một người đàn bà. Chính thị đã khiến Chí hồi tỉnh trở lại từ những trận rượu liên miên bất tận. Ăn bát cháo bát cháo hành trên tay thị Nở hắn chợt cảm nhận thấy được rằng “cháo hành thật ngon, bát cháo hành của thị Nở làm hắn nghĩ lắm. Hắn có thể tìm bạn được tại sao phải chỉ tạo thù? “bát cháo hành là mùi vị của hạnh phúc của tình thương mà bao con người nghèo khổ giành tặng hắn.
Trong suy nghĩ của kẻ mê tình lúc bấy giờ thị Nở bỗng nhiên trở nên có duyên và tình yêu làm cũng có duyên. Đó ấy là cái duyên ngầm bấy lâu đã bị xã hội chối bỏ nay mới có dịp bộc lộ ra bên ngoài. Nam Cao rất tài tình khi nhận thấy sự thật ấy từ góc mắt của một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Thị cũng là người mà Chí hy vọng được hoàn lương, muốn làm người tử tế và khao khát về với cuộc sống đời thường: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm tốt với nhiều người biết bao nhiêu. .. thị có thể sống yên ổn với chí thì tại sao người ta lại không được “thị chính là cầu nối của hắn với mọi người, thị là người giải thoát tâm hồn tội ác để nó quay về với bản tính bình thường.
Lúc này Chí mong muốn có được hạnh phúc gia đình giản dị hơn cả khi chỉ là một anh canh điền hiền lành “Chồng đi mướn cày thuê, vợ ngồi nhà bán hàng, chúng đã cho một con lợn giống vào làm vốn. Khá giả lại mua mấy sào đất làm “.Thị Nở đã đánh thức lương tâm làm người bị ngủ quên, bị vùi sâu trong con người Chí để hắn vùng lên giành sự sống mạnh mẽ.
Nhưng thị thì không phải người tỉnh thông thường mà là thằng ngẩn ngơ, kẻ điên nên hạnh phúc ngắn trôi đi và tình yêu bị đứt đoạn khi cô ả trở về tìm ý bà cô. Bà cô lão – đại diện cho dư luận xã hội lên án kịch liệt chuyện tình đôi lứa Chí Phèo và Thị Nở đồng nghĩa với việc “Con đường làm người của Chí vừa mới được hé lộ thôi thì đã bị khép chặt lại”. Chí bị khước từ quyền làm người và bị xã hội bất công áp bức dồn vào con đường cùng phải tự tử sau khi sát hại Bá Kiến.
Chí Phèo “của Nam Cao là tuyệt tác trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Tác giả đã xây dựng nhân vật tiêu biểu có hoàn cảnh đặc biệt là Chí Phèo. Qua nhân vật chí phèo ông gửi gắm ước vọng quá đỗi giản dị của con người song đã rơi vào ngõ cụt. Nếu Chí Phèo vừa đáng giận, vừa đáng yêu thì Thị Nở cũng là nhân vật để lại những ấn tượng cho người đọc.
Thị Nở trong những trang văn của Nam Cao là người con gái xấu xí, không đến nỗi “ma chê quỷ hờn”. Không phải Thị Nở nghiễm nhiên đi vào trang viết của Nam Cao, đó vừa là dụng ý nghệ thuật cũng là dụng ý nhân sinh mang giá trị sâu sắc. Đó cũng chính là tiếng lòng của Nam Cao giành tặng Chí Phèo. Hắn sinh ra không có ai yêu thương nên để người đời vứt đi; chỉ có Thị Nở với chí lớn như thế. Thị Nở mới là người có thể đưa Chí Phèo thoát ra vũng lầy tăm tối.
Thị Nở được Nam Cao xây dựng vô cùng hoàn hảo về ngoại hình đến tính cách. Đó là một người đàn bà có bề ngoài xấu xí, vừa quê mùa lại ngốc nghếch. Cái xấu xí của Thị Nở được Nam Cao tóm trọn trong 4 từ “ma chê quỷ hờn”. Chỉ 4 chữ thôi đã có thể khiến người đọc mường tượng đến “dung mạo” người phụ nữ làng Vũ Đại này. Người ta thường bảo ở đời hiếm người vừa xấu xí, vừa nghèo lại vừa ngu ngốc. Nhưng kỳ thực Thị Nở đang mang trong người tất cả 3 điều ấy.
Không phải Nam Cao không yêu thương nhân mình của mình, mà là ông yêu thị nở theo cách riêng và đặc biệt hơn nữa, bằng chính con người của họ. Chỉ có thế Thị Nở mới có thể sánh vai với CHí Phèo và nhiều người đồng hoàn cảnh. Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo đẳng. Người làng Vũ Đại ai cũng biết về Thị chỉ bởi sự xấu xí và nghèo. Thị đi bán hàng mướn để mưu sinh cuộc sống qua ngày. Thị cũng giống Chí Phèo và không được ai yêu thương.
Có lẽ đây cũng là dụng ý của Nam Cao khi để Chí Phèo và Thị Nở yêu nhau. Những kẻ khốn cùng trong xã hội đến với nhau và yêu thương nhau, có thể chỉ trong chốc lát thôi cũng gọi là có được tình yêu. Thị Nở là người phụ nữ nghèo, xấu xí, tính cách điên loạn nhưng luôn có một tấm lòng trong và vô cùng cao cả, là tình yêu thương người. Có lẽ đây cũng là thông điệp mà Nam Cao mong muốn chia sẻ, đồng cảm với nhiều người.
Nhân vật thị cũng được phác hoạ sau đêm gặp gỡ Chí Phèo, thông qua hình ảnh bát cháo hành, trong những cử chỉ quan tâm cùng câu hỏi han gửi đến Chí. Có lẽ đây là câu nói chan chứa tình yêu và bài viết cảm động về thân phận con người nghèo khổ, bất hạnh của cuộc sống. Thị Nở thương Chí Phèo bằng một tình thương bắt nguồn từ tâm hồn và lòng đồng cảm chân thành, không tư lợi, không toan tính. Chỉ đơn thuần đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, vì hắn cũng là người và cũng cần được yêu thương. Hắn cần Thị và suốt cuộc đời cũng cần thị như vậy.
Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau trong chính đêm định mệnh đó là đêm Chí Phèo uống say, họ ở làm vợ chồng suốt mấy ngày. Bát cháo hành là chất xúc tác, là mối dây gắn kết tình yêu của Thị Nở và Chí Phèo. Có thể nói Thị Nở và bát cháo hành là cứu tinh cho cuộc đời của Chí Phèo thời sau.
Tác giả đã xây dựng nên công nhân vật Thị Nở giữa các trang sách chỉ có khổ đau và thù hận của Chí Phèo. Thị Nở chính là ánh sáng đã thức tỉnh và khơi gợi lương tri của Chí Phèo trong ngày cuối cùng của cuộc đời. Khao khát dù cho sau này Chí Phèo có tự kết liễu cuộc đời mình thì Chí cũng đã hiểu được thế nào là tình yêu, là lòng người.
Nam Cao đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng với nhân vật Thị Nở. Là người có thể làm biến đổi Chí Phèo và cũng là người mang những yêu thương nhỏ bé, ít ỏi đến Chí. Đây cũng là ý nghĩa nhân văn của truyện ngắn Chí Phèo.
Thị cũng là người cho Chí cơ hội được hoàn lương, muốn làm người lương thiện và khao khát về với cuộc sống đời thường: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm tốt với nhiều người biết bao nhiêu. .. thị có thể sống yên ổn với chí thì tại sao người ta lại không được “thị chính là cầu nối của hắn với mọi người, thị là người giải thoát tâm hồn tội ác để nó quay về với bản tính lương thiện.
Lúc này Chí mong muốn có được cuộc sống hôn nhân bình thường theo ước mơ khi đang là một anh canh điền hiền lành “Chồng đi mướn cày thuê, vợ ngồi nhà bán hàng, chúng đã cho một con lợn giống vào làm vốn. Khá giả lại mua mấy sào đất làm “.Thị Nở đã đánh thức lương tâm làm người bị bỏ mặc và bị vùi sâu trong con người Chí để cô vùng lên giành sự sống mạnh mẽ.
Nhưng thị cũng không phải người tỉnh táo thông thường mà là thằng dở hơi, kẻ điên khiến hạnh phúc ngắn trôi đi và tình yêu bị đứt đoạn khi cô ả trở về tìm ý chí. Bà cô lão – đại diện cho dư luận xã hội lên án kịch liệt chuyện tình đôi lứa Chí Phèo và Thị Nở đồng nghĩa với việc “Con đường làm người của Chí vừa mới được hé lộ một chút thì đã bị khép chặt lại”. Chí bị khước từ quyền làm người và bị xã hội bất công độc ác dồn vào con đường cùng phải tự tử sau khi sát hại Bá Kiến.
Tuy nhân vật thị Nở có xuất hiện ở phần kết phim song đã cho Chí nhiều giây phút bình yên và từng bước được sống thật với bản tính lương thiện. Thị Nở là biểu tượng của tình người. Cũng chỉ có tình người, tình yêu mới có thể chế ngự được con quỷ ác trong người Chí Phèo. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cũng rất mong manh dễ dàng tan vỡ khi con người đó không biết yêu thương, quý trọng và giữ gìn.
Yêu thương nhân vật thị Nở nhà văn để lại cho bạn đọc bài học nhân đạo rằng chỉ có tình cảm chân thật bắt nguồn từ tâm hồn mới có quyền năng kỳ diệu thức tỉnh được con người tội lỗi. Qua đây ta cũng có được bài học ý thức rằng đừng “Trông mặt mà đoán bệnh” ngoại hình vẻ bề ngoài dù xấu xí nhưng chỉ cần bên trong con người có tình thương yêu, nhân ái và luôn nghĩ cho người xung quanh thì họ cũng thật đẹp, rất xứng đáng được tôn trọng và được yêu thương. Ở bên kia có biết bao nhiêu người phụ nữ đẹp nhưng không hẳn họ đã có được tấm lòng đầy tình thương như thị Nở.
Thị Nở dù chỉ là nhân vật mới nổi trong chốc lát song thị là đốm đuốc ủ ấm và đốt cháy sáng lương tâm làm người trong Chí, nhân vật đem tới tính nhân văn cho tác phẩm “Chí Phèo”. Ảnh thị xấu xí, nghèo nhưng đầy tình thương đó là đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt. Gập từng cuốn tiểu thuyết như thế nhưng hình tượng nhân vật thị Nở cùng chuyện tình bi kịch với Chí Phèo luôn ẩn hiện trong trí nhớ và trái tim của độc giả.
Nghèo, xấu, ngây y như mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, và tác giả đã trói chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Liệu có thực thị chỉ có ba điều đó không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý thế nào trong việc triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?
Tôi cho biết nhân vật Thị Nở ngay từ ban đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, nhưng không phải sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong bao nhiêu sản phẩm của tự nhiên có nhất thiết thứ nào cũng đẹp được không! Đã là giới tự nhiên thì cũng có cái tuyệt đẹp, có loại rất xấu, và có thứ vừa đẹp vừa xấu.
Thị Nở xấu xí như một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là điều có thật. Hơn nữa, thị ăn ngủ, mặc quần áo, nói năng. .. mà cũng cứ “vô tâm” như thể không biết, thế thì đó chả phải là tính hồn nhiên đệ nhất của tự nhiên đấy à! Cho nên trước sau, toàn thể con người Thị Nở hiện diện với tư cách là tất cả một khối tự nhiên thô mộc.
Chí Phèo là truyện kinh điển trước cách mạng, nó được viết nhằm phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc đó, trong câu chuyện các nhân vật luôn được tác giả miêu tả tinh tế và phản ánh sâu sắc được hiện thực đời sống. Nhân vật tiêu biểu truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm chính là nhân vật Thị Nở.
Thị Nở là nhân vật phản diện, nhưng nhân vật lại được tác giả Nam Cao giao những trách nhiệm rất lớn lao của tác phẩm như một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, các chi tiết luôn được miêu tả sâu sắc và mang nhiều giá trị văn hoá, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm chí phèo.
Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài khó coi và ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm cũng là “xấu ma chê quỷ hờn”. Với diện mạo được tác giả miêu tả “Cái mồm nó vừa nhỏ, vừa to, vừa đỏ, lại xù xì giống vỏ cam, miệng muốn trộn lẫn nhau với mấy chiếc răng cũng gắng làm cho không thua gì mũi nhưng có lẽ do cố quá đà nên chúng cứ trông như nứt ra.
Ðã thế là Thị tiếp tục ăn trầu thuốc lá, hai môi dày được đắp lên cao hơn một lần, cũng may mà quết trầu co lại nên che giấu được cả lớp da trâu xám nữa. Thực thế là nhiều cái răng càng lớn thì chìa đầu ra: ý chắc chúng thấy sự cân bằng trị được vài phần cho sự xấu xí “.Cũng ngay trong chi tiết trên tác giả đã thể hiện được diện mạo của Thị Nở với nhiều đường nét bề ngoài rất xấu.
Người ta hay lấy Thị Nở ra để ví von “xấu như Thị Nở” và cũng với diện mạo đó không ai có thể so sánh được với bề ngoài, với nhan sắc của Thị Nở. Cùng với sự đặt lên nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt và sâu sắc, hình ảnh chí phèo đã thể hiện được sâu sắc trong từng chi tiết hiện thực, gần gũi, mang đến cho người xem nhiều tràng cười thoải mái.
Thị Nở ngay tại nơi ngục tối này cũng là nạn nhân của sự bất công, của sự tha hoá, ngay trong cả chi tiết gặp gỡ Chí Phèo và Thị Nở đã thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự xuất hiện của Chí Phèo ở đây cũng là sự sắp đặt của tác giả nhằm nêu bật số phận của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xa còn một kẻ lại bị xã hội áp bức và bóc lột.
Ngay giữa đêm tối gió mát đây là thời điểm để Chí Phèo và Thị Nở gặp gỡ nhau, bởi tình yêu thương đưa cả hai người đến với nhau, còn chi tiết tô cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ ràng tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó đã thức tỉnh trái tim của hai nhân vật trong tác phẩm.
Tình yêu thương và sự quan tâm săn sóc của Thị khiến Chí muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở bãi đất trống, cũng không có cha mẹ, người thân, chính vì vậy sự quan tâm của Thị Nở đã làm trái tim Chí rung động, Chí cảm nhận được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở giành cho anh.
Nam Cao với tài phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xây dựng nên chính bản thân những nhân vật mang đầy cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm, từng chi tiết lại được bộc lộ nhiều điểm riêng biệt, mang những nét tinh tế, giàu giá trị tư tưởng, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa về cuộc đời của các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải nhiều tình yêu thương sâu sắc trong cuộc sống.
Nam Cao, một nhà văn hiện thực tài năng, không bao giờ quên khắc họa cuộc sống và số phận của người nông dân, nhưng cách ông làm điều này thật độc đáo. Những nhân vật mà ông tạo ra luôn là những con người bình dị, chân quê, và thậm chí có ngoại hình xấu xí. Trong họ, chúng ta có Thị Nở, một nhân vật đặc biệt trong truyện ngắn “Chí Phèo,” một biểu tượng của sự xấu xí và dở hơi, ít ai có thể so sánh trong lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, điều đặc biệt về Thị Nở không nằm ở ngoại hình hay bề ngoài đáng chê trách của cô, mà nằm ở khả năng của cô làm thức tỉnh tinh thần lương thiện ẩn giấu sâu trong con người Chí Phèo, một kẻ được xem là quỷ dữ. Có thể nói, điều kỳ diệu này chắc chắn chỉ có Thị Nở mới có thể thực hiện, và chỉ có tài năng của Nam Cao mới có thể biến đổi nó thành hiện thực. Nhưng tại sao Thị Nở lại có khả năng này? Có lẽ, đó là sự kết hợp của lòng nhân ái và lòng yêu thương mà cô mang trong trái tim. Từ chi tiết như bát cháo hành, một biểu tượng của sự tận tụy và lòng biết ơn, đến khao khát thay đổi số phận của Chí Phèo, Thị Nở thể hiện một tấm lòng chân thành và sẵn sàng chia sẻ.
Kết quả là, qua việc xây dựng nhân vật độc đáo của Thị Nở, Nam Cao đã truyền đạt một thông điệp quan trọng về sự thay đổi và khả năng của con người. Cô ấy đã làm cho chúng ta nhớ rằng, dưới lớp vỏ xấu xí, có thể ẩn chứa một tâm hồn lương thiện và đức tin, và đó chính là điều mà nghệ thuật và văn chương của Nam Cao đã làm rạng danh. Xây dựng nhân vật Thị Nở với ngoại hình xấu xí không phải là sự cố ý của nhà văn để bôi bác người phụ nữ Việt Nam. Ngược lại, tác giả muốn chúng ta nhìn vào cái đẹp tiềm ẩn sâu trong tâm hồn của họ, dù ngoại hình của họ có phần khó coi. Thị Nở, với nét mặt thực tế nhưng đầy đặc trưng của mình, thật sự xấu đến mức “cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”
Với những miêu tả thực tế và chân thực như vậy, tác giả muốn truyền đạt rằng trong văn học và cuộc sống thực tế, không ai nên bị đánh giá chỉ dựa vào ngoại hình bề ngoài. Thị Nở, dù có ngoại hình không mấy ưa nhìn, lại có một tâm hồn thuần khiết và tốt lành. “Đã thế thị lại dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”. Chính vì những đặc điểm này, Thị Nở không kết hôn và bị xa lánh bởi xã hội như một con vật tồi tệ. Từ những nét độc đáo trong nhân vật Thị Nở, tác giả muốn chúng ta suy ngẫm về sự giá trị thực sự của con người, và rằng cái đẹp thực sự nằm bên trong, không phụ thuộc vào hình dáng bề ngoài. Thị Nở trở thành một biểu tượng cho sự hiểu biết và lòng nhân ái, mở ra cửa vào để chúng ta thấy rằng mọi người đều có giá trị riêng, bất kể ngoại hình của họ. Thế nhưng, điều kì diệu xảy ra khi Thị Nở, một người phụ nữ bị xã hội xa lánh, bất ngờ trải qua một tình yêu đầy đặc biệt với Chí Phèo, người được mệnh danh là “con quỷ” trong làng Vũ Đại. Điều này có thể được xem như một tác động tinh subtil của nhà văn Nam Cao, khi ông đưa vào cuộc sống của những nhân vật xấu xí và dở hơi một tình yêu đầy tinh thần và sâu sắc.
Chí Phèo, với danh tiếng xấu xa và danh xưng “quỷ dữ,” trở thành người đồng hành của Thị Nở, và tình yêu của họ đã làm tỉnh lại những giá trị đẹp đẽ sâu thẳm trong tâm hồn con người. Thị Nở, từ một người phụ nữ với ngoại hình xấu xí và tính cách dở hơi, đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác. Cô chia sẻ: “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng… Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”. Không chỉ là sự quan tâm và lo lắng, Thị Nở còn nấu cháo và đem đến cho Chí Phèo, thể hiện tình cảm đặc biệt dành cho anh. Cô xem Chí Phèo như người đàn ông đích thực của cuộc đời mình, và tất cả những nụ cười và ánh mắt của Thị Nở, dù có vẻ lạ mắt, lại khiến Chí Phèo cảm thấy đối với cô có một duyên phận đặc biệt. Tình yêu này đã giúp họ nhìn thấy những đẹp đẽ ẩn giấu trong nhau, làm cho cuộc sống của họ trở nên phong phú và có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Bát cháo hành mang đến bởi Thị Nở, kèm theo những tình cảm đặc biệt dành cho Chí, đã gợi mở một làn sóng xúc động trong tâm hồn của Chí Phèo. Bước vào cõi ẩm thấp của ký ức, anh nghĩ về những mơ ước của tuổi trẻ, những thời điểm mà anh đã lạc hậu và đánh mất bản dạng của mình. Sự ăn năn và hối hận về những hành động sai lầm đã áp lên tâm trí anh, và từ đó, mong muốn trở lại con đường của người lương thiện và sống một cuộc đời tĩnh lặng, hạnh phúc bên cạnh Thị Nở đã nảy lên. Tình yêu đầy chân thành của người phụ nữ, dù ngoại hình của cô có phần xấu xí, đã thể hiện rằng tình yêu có thể thay đổi con người, thậm chí cả một kẻ bị xã hội coi là quỷ dữ. Không chỉ thế, trong làng Vũ Đại, không ai có thể nghĩ đến việc làm trái tim của Chí Phèo tan chảy, trừ một người phụ nữ xấu xí và dở hơi, bằng tình yêu chân thành và lòng nhân ái của mình. Điều này cho thấy rằng tình yêu có sức mạnh đặc biệt, có khả năng biến đổi và làm thay đổi cả những con người khó khăn nhất.
Nam Cao thật sự xuất sắc trong việc tạo dựng hình ảnh đầy đặc trưng của Chí Phèo, “con quỷ” của làng Vũ Đại, và càng xuất sắc hơn khi khắc họa nhân vật Thị Nở, người phụ nữ tràn đầy tình thương và lòng khoan dung, người đã thức tỉnh phần tốt lành trong Chí Phèo. Tình yêu mà người đàn bà xấu xí này dành cho anh là một tình yêu chân thành, tràn đầy từ trái tim, chảy ra từ lòng đồng cảm sâu sắc, không mong đợi đối với lợi ích riêng, và đó chính là điều làm cho nó trở thành một tình yêu đẹp đẽ và đáng trân trọng. Thị Nở thật sự là tia sáng trong cuộc đời của Chí Phèo, là nguồn hy vọng và cầu nối để anh ta quay trở lại con đường của con người, và sống hòa nhập trong cộng đồng. Mặc dù sau này, Chí Phèo có tự kết thúc cuộc đời của mình, nhưng nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn tiếp tục mang ý nghĩa vô cùng to lớn đối với một cuộc sống, một số phận. Chúng là nguồn lấy động lực và hy vọng cho cả những kẻ bị bất hạnh, lạc hướng, để họ không bao giờ mất niềm tin vào một tương lai tươi sáng, không ngừng khao khát được sống và được yêu thương.
Tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã thể hiện một thông điệp sâu sắc: không phải chỉ có những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng đáng nhớ. Những người phụ nữ với ngoại hình xấu xí nhưng trái tim ấm áp, đầy yêu thương, và lòng nhân ái, như Thị Nở, cũng có khả năng làm cho người đọc không bao giờ quên. Mặc dù ngoại hình của họ không được coi là đẹp, nhưng đó chính là sức mạnh của cái nét đẹp ẩn trong tâm hồn của họ. Dù ngoại hình xấu xí, nhưng Thị Nở đã có sự duyên dáng riêng, đó là sự duyên thầm mà cô mang trong lòng. Điều này đã có khả năng làm cho một “con quỷ dữ” như Chí Phèo cảm thấy thu hút và thúc đẩy mối tình đáng quý giữa họ. Chính tình yêu đầy chân thành và lòng nhân ái đã thắp sáng ngọn lửa tình yêu giữa các con người. Điều này chính là giá trị nhân văn và nhân đạo mà Nam Cao đã muốn truyền đạt qua tác phẩm của mình. Nó cho chúng ta thấy rằng, đẹp xấu chỉ là bề ngoại, trong khi đó, cái đẹp thực sự nằm ở tâm hồn và cách chúng ta đối xử với nhau.
“Chí Phèo” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về hoàn cảnh sống và số phận khốn cùng của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật Chí Phèo thì có lẽ Thị Nở cũng là một nhân vật để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm…
Ngay từ những dòng viết đầu khi giới thiệu về nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc.
Về lai lịch, Thị Nở được nhà văn giới thiệu là “không có ai thân thích, trừ một người cô đã có thể gọi được là già”. Thị là một người có diện mạo xấu xí mà theo cách miêu tả của nhà văn là đến mức “ma chê quỷ hờn”. Nhà văn đã dành một đoạn viết khá tỉ mỉ khi miêu tả và ngoại hình của thị: “Cái mặt của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó lại ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật tai hại, nếu như hai má nó phúng phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn […] Đã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu”. Thị được miêu tả chân thực về diện mạo như vậy khiến cho người đọc có cảm tưởng khó có thể tìm đâu một người có thể xấu hơn thị.
Phân tích nhân vật Thị Nở, người đọc nhận thấy bản thân việc sở hữu một diện mạo kém sắc đã là một bất hạnh của người phụ nữ, ấy thế mà Thị lại còn dở hơi, gia cảnh nghèo khó và “thị lại là giòng giống của một nhà có mả hủi”. Vì dở hơi nên thị thường hành động hoàn toàn dựa trên bản năng và “có một cái tật không sao chữa được: có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu hay là đang làm gì”. Vì cái nghèo đeo bám và phải sống qua ngày bằng cái nghề đi gánh nước thuê để kiếm sống nên Thị Nở không được để ý. Thị Nở cũng không có cơ hội được lập gia đình và “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm”.
Qua những chi tiết miêu tả về diện mạo, tính tình Thị Nở, Nam Cao có thể để lại cho người đọc tiếng cười trào phúng nhưng đằng sau tiếng cười ấy, ta cũng cảm nhận được một chút gì đó về sự đáng thương. Đó là thương cho thân phận bất hạnh của nhân vật chỉ vì những điểm đó mà nhân vật không được đón nhận và chấp nhận.
Nếu như Chí Phèo bị người làng Vũ Đại cự tuyệt bởi tội ác của quỷ thì Thị Nở bị mọi người hắt hủi bởi vì xấu xí, vì tính cách “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” và lại còn có “dòng giống mả hủi”. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy dường như không chỉ có Chí Phèo mà Thị cũng là một người cô đơn chịu sự ghẻ lạnh của xã hội loài người.
Thị Nở vốn là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, giàu lòng thương người, một người luôn mong muốn khát khao hạnh phúc gia đình. Bên cạnh đó, Thị Nở cũng là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm về bi kịch cuộc đời Chí Phèo – Đó cũng là những nét chính khi phân tích nhân vật Thị Nở.
Dù được xây dựng trong hình ảnh của một người xấu xí nhưng Nam Cao không hoàn toàn vì mục đích miệt thị nhân vật mà là muốn làm nổi bật tình người nơi Thị trong mối quan hệ giữa Thị và Chí Phèo.
Khi phân tích nhân vật Thị Nở sẽ thấy Thị xuất hiện ở đoạn truyện Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại và sau khi uống rượu say từ nhà của Tự Lãng, Chí Phèo lảo đảo ra về, nhưng không về về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng. Sau cuộc gặp đó, thị đã sống cuộc sống vợ chồng trong năm ngày với Chí Phèo. Tưởng chừng đó là quyết định của một con người dở hơi như Thị Nở, là một hành động cũng thuộc về bản năng nhưng chính nhờ vào quyết định ấy mà những gì thuộc về phẩm chất tốt đẹp của một con người đã được bộc lộ ở một người phụ nữ xấu đến “ma chê quỷ hờn” như thị.
Nhờ gặp Chí Phèo, Thị có cơ hội được quan tâm, chăm sóc người khác khi Chí Phèo nôn mửa, Thị biết “đặt bàn tay lên ngực hắn” để hỏi han sau đó “quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Hành động của Thị Nở không phải là hành động thể hiện sự đáp trả cho sự việc diễn ra giữa hai người trong đêm mà là hành động của tình người.
Điều đó được thể hiện trong sự xuất hiện của Thị Nở vào buổi sáng hôm sau, khi Chí Phèo suy nghĩ về cuộc đời, về việc “hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau” rồi hắn có thể như sắp khóc được thì thị đã đến như một sự cứu rỗi linh hồn. Khi đến nhà Chí Phèo, Thị Nở lại mang đến một bát cháo hành còn nóng nguyên. Một người ngẩn ngơ, tưởng chừng như không biết quan tâm mọi người như thị lại có thể dành tình sự chăm sóc cho người khác.
Thị mang đến cho Chí Phèo bát cháo hành và đồng thời, thị cũng bắc cho Chí Phèo một nhịp cầu trở về với đời sống của một con người lương thiện. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy hương vị của bát cháo hành đã khiến Chí Phèo thật sự xúc động vì lần đầu tiên trong đời, Chí được người ta cho ăn mà không cần phải rạch mặt ăn vạ. Lần đầu tiên trong đời, Chí được ăn và được chăm sóc bởi bàn tay của người phụ nữ vì từ thuở lọt lòng, Chí đã bị bỏ rơi. Cũng là lần đầu tiên trong đời, Chí Phèo được ăn trong ánh mắt trìu mến của Thị Nở để rồi hắn cảm nhận được hình như mình cũng được xem là một con người.
Thị Nở đã thực sự đánh thức phần người còn lại của Chí Phèo bằng tình yêu thương, giúp cho những ước mơ và khát vọng ngày xưa trong Chí Phèo có cơ hội thức dậy. Trong cái xã hội bị tha hóa và con người thường tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn và định kiến với những người xung quanh, người ta không chấp nhận, mặc kệ sự tồn tại của người lầm lỡ như Chí Phèo, người ta cho Thị Nở là kẻ ngẩn ngơ thì chính thị lại là người đã dùng tình người đã đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong Chí Phèo.
Trong tác phẩm, sau khi sống cuộc sống vợ chồng năm ngày với Chí Phèo, ta còn thể thấy được ở Thị Nở một niềm khát khao chính đáng về hạnh phúc gia đình. Khi phân tích nhân vật Thị Nở sẽ thấy Thị dù có xấu xí như thế nào, dở hơi ra sao thì thị có lẽ thẳm sâu trong người phụ nữ ấy cũng có mong muốn được có niềm hạnh phúc của một mái ấm như biết bao người phụ nữ trên đời.
Đối với Chí Phèo, Thị Nở có cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích” và trong mối quan hệ ấy, thị thật sự nghiêm túc trong việc muốn xây dựng hạnh phúc gia đình với Chí Phèo nên đã đưa ra quyết định “dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Thị có lẽ cũng muốn cuộc hôn nhân dù có được một cách ngẫu nhiên như thế nhưng cũng cần đến sự đồng thuận của người bề trên chăng?.
Thị có lẽ cũng đã hi vọng, đã tin tưởng rằng mong muốn chính đáng đó của mình sẽ được sự chấp thuận của người cô nhưng đến cuối cùng điều thị ước ao lại không trở thành hiện thực. Thế nên sau khi bị cô chối từ, thị đã giận dữ và tức tối rồi “dẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng”.
Quyết định của bà cô chính là biểu hiện của những định kiến xã hội trong việc chối từ sự trở lại làm người của Chí Phèo nhưng đồng thời cũng tước đoạt đi cái quyền được trở thành một người phụ nữ của gia đình như Thị Nở. Chí Phèo rơi vào bi kịch và Thị Nở cũng trở nên hết sức đáng thương.
Thị Nở đã đến với Chí Phèo như một cái duyên và chính nhờ tình yêu của thị mà Chí Phèo có mong muốn được sống một cuộc đời lương thiện nhưng thị cũng lại chính là người đầu tiên ruồng bỏ Chí Phèo và khiến hắn thật sự phải gánh chịu bi kịch bị cự tuyệt của một con người.
Sau khi hỏi ý kiến người cô, Thị Nở đã quyết định “dừng yêu” và bỏ rơi Chí Phèo. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy quyết định đó của Thị đã khiến Chí Phèo nhận ra một điều là tất cả những ước mơ, khát vọng trong mình đã thực sự đổ vỡ. Kể cả những ước mơ nhỏ bé như được làm bạn với mọi người, được sống một cuộc đời lương thiện hay được xây dựng tương lai với Thị Nở cũng trở nên quá tầm với Chí Phèo.
Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đã chạy theo nắm tay như cố níu kéo cuộc sống được làm một con người. Thế nhưng, Thị Nở đã dứt khoát gạt tay hắn ra và còn xô hắn ngã. Thị đã đẩy Chí Phèo trở về đời sống của một con quỷ. Chí Phèo khóc khi nhận ra bi kịch lớn nhất của cuộc đời mình: bi kịch không thể vượt qua được định kiến xã hội, bi kịch của một con người được sinh ra làm người nhưng không được chấp nhận là người.
Về nội dung, truyện ngắn “Chí Phèo” đã thể hiện tấm lòng thương cảm của mình với số phận bi đát của người nông dân nghèo khi bị đẩy vào con đường lưu manh hóa đến độ bế tắc, cùng đường và phải chịu một kết cục không lối thoát. Đồng thời, tác phẩm cũng đại diện cho tiếng nói phê phán của nhà văn đối với một xã hội quần ngư tranh thực với đầy rẫy những cường hào ác bá khiến người dân không thể ngóc đầu lên được
Về nghệ thuật, Nam Cao đã hết sức thành công trong cách xây dựng nhân vật và tổ chức, sắp xếp cốt truyện hết sức hấp dẫn, giàu kịch tính. Đặc biệt, tác phẩm đã sử dụng hệ thống ngôn từ vừa tinh tế, vừa sống động, nhất là với những đoạn độc thoại nội tâm đã cho tạo nên hiệu quả rất lớn đối với việc phân tích tâm lí nhân vật.
Riêng với việc xây dựng hình ảnh nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã cho thấy tấm lòng trân trọng của mình với những vẻ đẹp khuất lấp nơi một con người dù có dung mạo xấu xí, có tính cách gàn dở. Đồng thời, nhà văn cũng đã lên tiếng tố cáo xã hội với những định kiến tàn nhẫn, những định kiến ấy đến độ nếu không đẩy con người lầm lạc như Chí Phèo đến cái chết bi thảm thì cũng khiến một người phụ nữ như Thị Nở bị tước đoạt niềm khao khát chính đáng về một mái ấm gia đình.
Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao khi viết về đề tài người nông dân. Bên cạnh nhân vật chính Chí Phèo để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc, thì ta cũng không thể quên được một Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn, nhưng lại có tấm lòng thương người sâu sắc. Nhân vật là một nét mới, làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Thị Nở được miêu tả bằng biện pháp cực tả, được Nam Cao nhận xét là xấu ma chê quỷ hờn: Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn da. Ðã thế Thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.
Bản thân Thị Nở cũng là một số phận bất hạnh. Vẻ đẹp của Thị Nở có thể không được phô bày ra bên ngoài, dễ dàng, rõ thấy mà nó là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp bên trong, đó là vẻ đẹp của nhân cách, của lòng yêu thương con người.
Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau ở bờ sông, khi thị Nở nằm cạnh gốc chuối ngủ, còn Chí uống rượu say ở nhà Tự Lãng trở về ra bờ sông tắm. Sự gặp gỡ của họ thật tình cờ. Nhưng sự gặp gỡ đó mở ra cơ hội hạnh phúc cho cả hai người, đặc biệt là với Thị Nở. Sau đêm đó, Thị Nở dìu Chí Phèo về lều do hắn bị cảm, trước khi về Thị Nở không quên đắp manh chiếu cho Chí khỏi lạnh.
Cử chỉ nhỏ bé nhưng cho thấy tình yêu thương, sự quan tâm của Thị với Chí. Thị trở về nhà vẫn luôn quan tâm lo lắng và có trách nhiệm với Chí : “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”.
Ý thức được trách nhiệm của bản thân với Chí, sáng hôm sau Thị Nở nấu cháo và mang sang tận nơi, cử chỉ của Thị nở thấm đẫm tình yêu thương, Thị giục Chí ăn nhanh, trong giọng nói không chỉ là sự quan tâm, lo lắng mà còn đầy tình tứ. Nụ cười của Thị với những người xung quanh thật xấu xí và vô duyên, nhưng với Chí thì Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Dưới con mắt tình nhân mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ hơn, và cũng nhờ sự quan tâm của Thị Nở trong Chí dần dần phần người, phần nhân tính đã trở lại.
Với nhân vật Thị Nở ta không thể quên chi tiết bát cháo hành. Đó không chỉ đơn thuần là bát cháo giúp Chí giải cảm mà đó còn là bát cháo của tình thương, trách nhiệm và bát cháo của sự hồi sinh nhân tính. Bát cháo đã làm Chí vô cùng ngạc nhiên, hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình ươn ướt, vì đây là lần đầu tiên hắn nhận được sự quan tâm từ một người đàn bà, và đây cũng là lần đầu hắn biết cháo hành ngon đến vậy. Bởi có ai nấu cho mà ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa ! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”.
Không chỉ vậy, Thị Nở còn là người biết khao khát hạnh phúc. Sau đêm ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những chuyện đã qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh phúc đã ấp ủ từ lâu. Trước lời đề nghị về sống chung với Chí, Thị Nở đã sẵn sàng vượt qua định kiến, sang ở với Chí năm ngày. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ và hạnh phúc nhất của Thị.
Sau năm ngày chẵn, Thị chợt nhớ ra mình còn có bà cô và Thị trở về nhà hỏi ý kiến của bà cô để hợp thức hóa quan hệ với Chí Phèo, để cũng được hưởng hạnh phúc bình dị như biết bao người phụ nữ khác. Nhưng trước lời đay nghiến, chỉ trích của bà cô: Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hắn: ai lại đi lấy thằng Chí Phèo. Mọi cơ hội hạnh phúc bị dập tắt, tính Thị lại dở hơi nên đem bao nhiêu bực dọc sang đổ lên đầu Chí Phèo và quay trở về không mảy may nghĩ ngợi.
Thị là người đã khơi dậy niềm tin vào tương lai, hi vọng cho Chí, nhưng cũng chính là người đã dập tắt, đã ngăn con đường trở về làm người lương thiện của Chí Phèo. Chi tiết cuối tác phẩm, khi Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát, sau đó Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng thấy cái lò gạch cũ, như một dự báo về một Chí Phèo con ra đời. Cái kết đầy ám ảnh, nó cũng như ngầm dự báo về tương lai mờ mịt của Thị Nở.
Nhân vật Thị Nở chỉ là nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng với nhân vật này Nam Cao cũng bộc lộ niềm thương yêu và cảm thông sâu sắc đến số phận bất hạnh của họ. Nhân vật có ý nghĩa quan trọng đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm và góp phần thúc đẩy câu chuyện phát triển.
Bằng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Thị Nở, cho thấy số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp nhân cách sáng ngời đằng sau lớp vỏ xù xì, xấu xí. Nhân vật đã góp phần hoàn chỉnh chủ đề và thúc đẩy truyện phát triển hợp lí.
–
Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới bạn đọc bài viết phân tích nhân vật Thị Nở. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục thi THPT Quốc gia, Tiếng Anh lớp 11, Toán lớp 11…
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
This post was last modified on 20/03/2024 20:37
Con số may mắn hôm nay 23/11/2024 theo năm sinh: Nhặt TIỀN từ con số…
Tử vi thứ bảy ngày 23/11/2024 của 12 con giáp: Tuổi Thìn chán nản, tuổi…
Vận may của 4 con giáp đang ngày càng xuống dốc. Cuối tuần này (23-24/11),…
Con số cuối cùng trong ngày sinh dự đoán con người sẽ GIÀU CÓ, sống…
Cuối tuần này (23-24/11), 4 con giáp sẽ gặp nhiều may mắn và thành công…
Tử vi hôm nay – Top 3 con giáp thịnh vượng nhất ngày 22/11/2024