Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Nói với con – Y Phương

1. Tìm hiểu chung về bài thơ Nói với con – Y Phương

Tác giả Y Phương (1948 – 2022)

– Tên thật: Hứa Vĩnh Sước

– Sinh năm 1948, mất ngày năm 2022

– Quê quán: tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (ông là người dân tộc Tày)

– Ông là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ xuất thân từ dân tộc miền núi

– Y Phương có niềm đam mê dành cho văn chương từ rất sớm, ham mê đọc sách ngay từ nhỏ

– Ngoài ra, Y Phương đã trải qua cuộc đời người lính đặc công từ năm 1968 và con đường đến với thơ ca của ông cũng rất tình cờ và ngẫu nhiên

Cảm hứng trong sáng tác và phong cách nghệ thuật

– Y Phương luôn đi tìm cái mới, cái độc đáo trong những sáng tác của mình, tuy nhiên vẫn giữ cho mình khuôn phép riêng, ngay cả trong đời sống thực.

– Người đọc có thể dễ dàng tìm thấy ở Y Phương một tiếng nói chung, đồng cảm, bởi lẽ cuộc sống đời thường và trong thơ của ông chính là một

– Các tác phẩm thơ của Y Phương được lấy chất liệu chủ yếu từ gia đình, quê hương và đất nước

– Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ thơ gần gũi, giản dị, hồn nhiên, mang đặc trưng lối tư duy của người vùng cao. Hình ảnh thơ được tác giả vận dụng phong phú, mang giá trị biểu tượng cao;…

– Văn chương nghệ thuật với Y Phương có thể coi là một trò chơi ngôn ngữ nhằm thỏa mãn cho chính bản thân nhà thơ và cho người đọc

Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Y Phương:

Người của núi” (1982); Tháng Giêng – tháng Giêng một vòng dao quắm (2009); Nói với con (1980); Người núi Hoa (1982); Tiếng hát tháng giêng (1986); Lời chúc (1991); Thất tàng lồm (Ngược gió, 2006); Hoa quả chuông (Bjooc ăn lình); Đò trăng (trường ca),…

Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ “Nói với con” được sáng tác vào năm 1980, 5 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là giai đoạn mà đời sống của nhân dân nói chung gặp rất nhiều khó khăn, cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong tâm sự của Y Phương, ông từng nói rằng: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn… Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng.”

Ngoài là lời tâm sự với con, tác phẩm còn là lời tâm sự với chính mình. Y phương giải thích: lý do để ông ra sáng tác bài thơ chính là khi ông không biết lấy gì để vịn, để tin. Khi cả xã hội lúc bấy giờ đều đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Vì vậy, muốn sống đàng hoàng như một con người, cần phải bám vào nền tảng văn hóa, tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Qua bài thơ ấy, Y Phương muốn gửi thông điệp rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ ấy bằng văn hóa.” Bài thơ đối với Y Phương như một lời tâm sự với chính mình, mục đích là để động viên bản thân, đồng thời để lại lời nhắc nhở cho các thế hệ mai sau.

Bài thơ được in trong tập thơ “Thơ Việt Nam”

Bố cục 1: 2 phần

Phần một – Đoạn 1: Nhắc nhở về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con

Phần hai – Đoạn 2: Đề cao những phẩm chất cao quý của người đồng mình và mong con tiếp nối truyền thống cao đẹp đó

Bố cục 2: 3 phần

Phần 1: Từ đầu… đẹp nhất trên đời -> Nói với con về tình cảm cội nguồn

Phần 2: Tiếp theo … phong tục -> Sức sống bền bỉ của quê hương

Phần 3: Còn lại -> Lời dặn dò của người cha

Như vậy, bố cục bài thơ đi từ tình cảm gia đình -> tình cảm quê hương -> nâng lên lẽ sống.

Giá trị nội dung

Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống, niềm tự hào về quê hương, dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽ với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống

Giá trị nghệ thuật

Thể thơ tự do, các hình ảnh thơ đẹp, sử dụng các biện pháp tu từ quen thuộc,…

Nhịp điệu lúc nhẹ nhàng bay bổng, khi khúc chiết rành rột, lúc mạnh mẽ âm vang – > lời khuyên của cha thấm sâu vào con.

Ngôn ngữ thơ cụ thể, hàm súc, nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo sinh động mang đậm bản sắc thơ ca miền núi cũng là những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

phan-tich-ngu-van-9.jpg

2. Dàn ý chung phân tích bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương

A. Mở bài

Sơ lược về tác giả và phong cách sáng tác.

Giới thiệu tác phẩm.

B. Thân bài

a. Lời gợi nhắc về tình cảm đùm bọc, che chở, yêu thương đầy ấm áp của gia đình, cộng đồng dân tộc và quê hương đối với mỗi con người.

* Trong gia đình “ Chân phải…tiếng cười”:

Mở ra quá trình sinh trưởng của đứa con trong vòng tay yêu thương của gia đình, gợi liên tưởng đến một mái ấm vô cùng hạnh phúc, những niềm hạnh phúc dẫu giản đơn nhưng là quý giá vô cùng.

Người cha còn muốn nhắn nhủ với đứa con bé bỏng của mình về công lao dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, con cái chính là món quà vô giá mà tạo hóa đã ban cho cha mẹ, là niềm tin, niềm hy vọng để cha mẹ phấn đấu trong suốt cuộc đời.

* Trong không gian làng, bản quê hương: “Người đồng mình…cho những tấm lòng”:

Gợi ra vẻ đẹp của “người đồng mình” trong công cuộc lao động là sự khéo léo, tài hoa; trong nền nếp văn hóa là sự yêu đời, yêu cuộc sống, chân phương giản dị, thấm đẫm trong không gian sinh hoạt làng bản.

Gợi ra vẻ đẹp trù phú, sung túc của quê hương thông qua “Rừng cho hoa”, vẻ đẹp tình nghĩa, thấm đẫm thân tình của quê hương thông qua câu “Con đường cho những tấm lòng”.

Nhắc nhở đứa con về vẻ đẹp, niềm hạnh phúc của một mái ấm gia đình thông qua lời nhắc về ngày cưới của cha mẹ.

=> Từ những hình ảnh thông thường của cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của người dân tộc miền núi phía Bắc, thế nhưng khi bước vào thơ của Y Phương người ta thấy những hình ấy có một vẻ đẹp khác hẳn, rất thơ và rất đậm vẻ tự hào, yêu thương, xúc động của một người con miền núi Cao Bằng.

b. Vẻ đẹp tâm hồn của “người đồng mình”:

Vẻ đẹp của lòng kiên trì, sức mạnh, ý chí phấn đấu khắc phục mọi điều kiện khắc nghiệt, để tạo nên một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc.

Thông qua niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của “người đồng mình”, người cha đã dặn dò, dạy bảo con bằng tất cả tấm lòng, mong con sau này lớn lên kế thừa và phát huy được những vẻ đẹp ấy, “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/Sống trong thung không chê thung nghèo đói/Sống như sông như suối/Lên thác xuống ghềnh/Không lo cực nhọc”.

“người đồng mình” còn hiện lên với vẻ đẹp tự lực, tự cường, dẫu có nghèo khó, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn đủ đường, “thô sơ da thịt” nhưng người đồng mình chẳng có mấy ai chấp nhận, khuất phục mà họ đều tự trở nên mạnh mẽ, cường đại trong công cuộc kiến thiết và xây dựng quê hương.

Xây dựng riêng cho mình những phong tục tập quán tốt đẹp, gìn giữ và lưu truyền biết bao đời, xây dựng lên một cộng đồng dân tộc thống nhất.

C. Kết bài

Nêu cảm nhận chung.

3. Viết đoạn văn 1000 từ phân tích bài thơ Nói với con ngắn gọn

Y Phương (24/12/1948), tên thật là Hứa Vĩnh Sước, ông là một trong những nhà thơ dân tộc nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, sinh ra và lớn lên trong cái nôi của người dân tộc Tày, thế nên chất thơ của Y Phương rất đỗi trong sáng, đôn hậu, thật thà, chất phác như tấm lòng của người dân miền núi. Cùng với đó là những hình ảnh thơ phong phú, độc đáo mang sức liên tưởng mạnh mẽ, gắn liền với đời sống của nhân dân, tựa như chất liệu thổ cẩm đan xen từng vần thơ, góp phần làm nên những tác phẩm giàu tính nhân văn. Nói với con là một trong những bài thơ hay nhất đã làm nên tên tuổi của Y Phương trên thi đàn Việt Nam, với giọng thơ là lời thủ thỉ tâm tình của người cha dành cho đứa con của mình, từng câu đều thấm đẫm tình cảm gia đình thiêng liêng, ấm áp, mở rộng ra chính là tình yêu tha thiết với mảnh đất, với con người quê hương mình của tác giả, vừa thấm thía, vừa chân thành.

Nói với con là bài thơ mang đầy đủ những đặc điểm của thơ Y Phương, mạch cảm xúc chủ yếu đó là tình yêu thương sâu sắc của người cha dành cho đứa con, thông qua những lời tâm sự, hồi tưởng từ quá khứ đến hiện tại. Cũng giống như Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm hay Con cò của Chế Lan Viên, Nói với con không chỉ đơn thuần là lời tâm sự mà đó là những lời dạy bảo chân thành của người cha dành cho con về quê hương xứ sở, về “người đồng mình” đầy thiết tha và trìu mến. Những đứa trẻ trong các bài thơ kể trên đều chưa lớn, có đứa còn trong nôi, còn trên lưng mẹ thế nhưng các em rất may mắn khi có những người cha người mẹ biết yêu thương, và biết cách giáo dục con cái thông qua những cách thức thông thường như lời ru, lời hát, lời kể, khiến các em dần hình thành tư tưởng yêu thương từ khi còn thơ bé. Trong Nói với con Y Phương mở đầu bài thơ bằng những lời kể thật ấm áp, hoài niệm:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Đó hoàn toàn là tiếng lòng hạnh phúc của một người cha khi nhắc về kỷ niệm những ngày con còn thơ ấu, những bước đi chập chững đầu đời đều để lại trong trái tim cha, mẹ những dấu chân đầy ắp kỷ niệm. Tiếng nói đầu tiên con gọi “cha”, lần đầu tiên con cười khiến cha mẹ mừng chảy nước mắt, con chính là món quà tuyệt vời nhất mà tạo hóa đã ban cho cha mẹ. Y Phương gợi nhắc quá khứ để gieo vào lòng con về những năm tháng thuở ấu thơ, con có quyền được biết và ghi nhớ chúng như những ký ức đáng giá nhất cuộc đời, đồng thời người cha cũng muốn gợi mở cho con những nền tảng đầu tiên về tình cảm gia đình ấm áp, về quá trình sinh ra và lớn lên của một con người. Không ai có thể tự lớn lên thành người, ai cũng có cha sinh mẹ đẻ, ai cũng cần người chăm sóc, dạy dỗ, Y Phương muốn nhắn nhủ với con về công lao và tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ dành cho con cái từ thuở con sinh ra cho đến khi con lớn khôn thành người, chính bởi tình yêu ấy mà cha chưa lúc nào quên những bước chân, tiếng nói đầu đời của con. Từ khuôn khổ trong gia đình tác giả bắt đầu mở rộng ra cộng đồng, làng xóm với những vẻ đẹp giản dị đáng quý của người dân tộc miền núi.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Y Phương dùng một giọng thơ tha thiết, để gợi mở ra những vẻ đẹp của người dân tộc miền núi bằng câu thơ chứa chan tình cảm “Người đồng mình yêu lắm con ơi”, chỉ một chữ “yêu” mà chứa đựng biết bao tâm tình, đó là tấm lòng trân trọng, tự hào về những con người của quê hương xứ xở. Những con người lao động với đôi bàn tay thô sơ, nhưng khéo léo, thuần thục trong công việc lao động, để mỗi sản phẩm họ làm ra đều như một tác phẩm nghệ thuật ví như chiếc “lờ” đánh cá cũng phải được chau chuốt “nan hoa”, đó không đơn thuần là hành động tự phát mà đó là cả một quá trình sáng tạo, là nét văn hóa đã in sâu vào tâm hồn người dân kể cả trong công việc lao động thường ngày. Và đặc biệt giữa cuộc sống nhiều khó khăn vất vả thế nhưng tâm hồn của “người đồng mình” vẫn rất đẹp, rất yêu đời, từng câu hát, câu ca trong lối sinh hoạt văn hóa của người Tày không chỉ nằm trong trí nhớ mà đã in sâu vào cả vách nhà, cả quê hương, để mảnh đất này tràn đầy tình yêu thương, với bản sắc dân tộc đong đầy khắp xứ xở. Rồi từ vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Y Phương lại khéo léo chuyển sang vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của quê hương với hình ảnh “rừng cho hoa” xanh tươi, rực rỡ tràn đầy sức sống, là hình ảnh đại diện cho phong cảnh miền núi phía Bắc, nơi mà ông và “người đồng mình” đã cùng nhau sinh sống suốt ngàn năm nay. Ngoài ra “rừng cho hoa” còn gợi ra sự trù phú, giàu có của thiên nhiên, đã ban tặng cho cuộc sống của con người niềm vui, cái đẹp, tô điểm thêm cho quê hương. “Con đường cho những tấm lòng” là một hình ảnh có nhiều sức gợi, Lỗ Tấn từng nói: “Trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”, con đường trong thơ Y Phương cũng vậy nó là kết quả của biết bao dấu chân “người đồng mình” tạo thành, đó là tấm lòng gắn bó với mảnh đất quê hương, là tình cảm kết tinh đẹp đẽ với làng xóm, với đồng bào, với gia đình. Và con đường đã chứng kiến biết bao nhiêu đổi thay của năm tháng, lớp người này ra đi, lớp người kia lại lớn lên, tất cả đều đã đặt dấu chân mình trên con đường thân thuộc có dấu vết của tháng năm, có những giọt mồ hôi và cả nước mắt. Có lẽ nói không ngoa thì con đường chính là chứng nhân cho những năm tháng đã qua của cả một cộng đồng dân tộc. Người cha nói với con những điều này với tấm lòng trân trọng yêu thương, chỉ mong con có thể ghi nhớ và khắc sâu vào lòng những gì thân thuộc nhất của quê hương, để khiến con nhận thức được ngoài gia đình thì chính những nét đẹp văn hóa, chính cái nôi của cộng đồng đã nuôi dưỡng con thành người, cho con tiếng nói, cho con những vẻ đẹp tâm hồn quý giá. Và lần nữa người cha lại khắc sâu trong lòng con ấn tượng về tình cảm gia đình qua câu thơ “Cha vẫn nhớ mãi về ngày cưới/Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”, là lời khẳng định hạnh phúc gia đình, khẳng định thêm về tình cảm gia đình vững chắc là cơ sở để cho con được một cuộc sống êm ấm, và cũng là cơ sở để gây dựng nên một cộng đồng dân tộc với những nét đẹp trong văn hóa, phong tục truyền thống.

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

Vẻ đẹp của “người đồng mình” không chỉ dừng lại ở sự khéo léo sáng tạo trong lao động hay lòng yêu cuộc sống, với những nét đẹp tập quán mà còn thể hiện ở ý chí và sức mạnh trong tâm hồn. Y Phương viết “Người đồng mình thương lắm con ơi” vừa thể hiện được tấm lòng yêu thương gắn bó tha thiết với dân tộc mình, vừa thể hiện nỗi niềm cảm thông, thấu hiểu trước những vất vả mà “người đồng mình” phải gánh chịu. “Cao” và “xa” là hai lượng từ bình thường nhưng trong thơ Y Phương lại mang nhiều sức gợi đặc biệt, nó khiến độc giả liên tưởng đến một vùng đất núi non trùng điệp, ở xa tít tận địa đầu phía Bắc, cả thời tiết và địa hình đều khắc nghiệt vô cùng. Thế nhưng những con người nơi đây chưa một lần lấy đó làm nản chí, mà ngược lại chính những khó khăn đó đã nuôi dưỡng trong tâm hồn họ sự kiên cường và mộng ước “chí lớn” vững mạnh. Chính vì bản thân dân tộc từ bao đời nay đã có những đức tính đẹp như vậy, nên cha cũng muốn con kế thừa và phát huy truyền thống vượt khó ấy “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/Sống trong thung không chê thung nghèo đói”. Là “người đồng mình” con phải học được các thích nghi với cuộc sống, linh hoạt và mềm dẻo như dòng sông, con suối, dù là thác hay ghềnh đều không khiến con phải nản chí, chùn bước. Lời thơ của tác giả có chút ngậm ngùi xót thương cho những con người miền núi, thế nhưng phần hơn vẫn là niềm tự hào sâu sắc với bản lĩnh và ý chí kiên cường của dân tộc, họ đã sống và xây dựng quê hương ngày càng trở nên tươi đẹp như thế. Tuy rằng nghèo khó, chỉ với đôi bàn tay thô sơ cầm cái cuốc, con dao, khuôn mặt sạm đi vì gió núi, nhưng “người đồng mình” chẳng mấy ai nhỏ bé, bởi họ mang trong mình một tâm hồn lớn lao, lao đẹp, một ước mơ tuyệt vời, chỉ riêng điều ấy đã đẩy con người lên một tầm vóc mới. Họ dùng trí tuệ và sức mạnh của đôi bàn tay cần cù mà ra sức kiến thiết “tự đục đá kê cao quê hương”, xây dựng làng bản, tạo ra của cải vật chất, và các giá trị tinh thần, làm thay đổi bộ mặt của vùng núi phía Bắc, đóng góp một phần rất lớn vào việc xây dựng đất nước. Mà theo quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân làm ra Đất Nước, tạo nên quê hương, và nhiều lớp người như thế đã tạo nên một dòng chảy văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc kéo dài suốt mấy ngàn năm lịch sử, điều ấy hoàn toàn phù hợp với ý thơ “Còn quê hương thì làm phong tục” của Y Phương. Có thể nói rằng con người và quê hương là hai nhân tố không thể tách rời, có ý nghĩa tương hỗ, kết hợp thành một thực thể thống nhất với những giá trị to lớn vừa bao gồm cả vật chất và tinh thần để tạo nên một cộng đồng đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau.

Kết bài thơ là lời dặn dò thấm thía và đầy thương yêu của người cha dành cho đứa con của mình sau những lời tâm tình, giảng giải về vẻ đẹp của quê hương và “người đồng mình”.

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”

Cha mong rằng là thế hệ sinh sau đẻ muộn thì con hãy lấy người đi trước làm tấm gương sáng để noi theo, luôn mang trong mình tình cảm yêu thương gia đình, yêu thương con người và mảnh đất của quê hương để phấn đấu nỗ lực lấy cái tâm hồn mạnh mẽ, kiên cường, ý chí vượt khó lớn lao để góp phần xây dựng đất nước.

Nói với con là bài thơ hay với những vần thơ tự do, phóng khoáng tựa tâm hồn của người miền núi, đã thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương của người cha đối với con thông qua cách giáo dục mềm mỏng, thủ thỉ, thấm đẫm ân tình. Đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào, niềm yêu thương của tác giả đối với mảnh đất quê hương và những con người chất phác, tuy nhỏ bé về sức vóc nhưng lại mang trong mình những vẻ đẹp tâm hồn lớn lao, đáng ngưỡng mộ.

4. Viết đoạn văn 1000 từ phân tích bài thơ Nói với con ngắn gọn – bản 2

Bình an, hạnh phúc có nào xa

Cũng bởi tình thương tỏa khắp nhà

(Gia Đình -Nguyễn Xuân Viện)

Quả thực, Có lẽ từ lâu hai tiếng “ gia đình” đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người. Là nơi chứa đầy tình yêu thương và sự ngọt ngào của mẹ, là những lời tâm tình trầm ấm của cha. Là bến đỗ bình yên nhất mà ta luôn muốn chạy đến. Là nơi trái tim con người ta phải rung lên một khoảnh khắc khi chạm nhắc … Không chỉ hiện mình trong đời sống thường nhật mà hình ảnh gia đình, tình yêu thương của cha mẹ cũng xếp danh trong nền văn học Việt Nam .Và trong số đó ta không thể không nhắc đến gia vị ngọt ngào của gia đình , của tình yêu thương vô vàn của người cha trong bài thơ “Nói với con” – Y Phương, là lời nhắn nhủ, dặn dò của người cha dân tộc miền núi gửi gắm cho đứa con của mình, đồng thời gợi nhắc cho chúng ta về tình yêu quê hương, đất nước, ý chí vươn lên của dân tộc.

Bài học đầu tiên mà người cha Y Phương muốn gửi gắm cho đứa con của mình không phải những gì là vật chất hay cũng không phải là những thứ đỗi xa vời, mà là nơi gần gũi nhất với chúng ta, là nơi chứa đựng đầy ắp những tiếng cười :

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”.

Mở ra khung cảnh của 4 câu thơ đầu với những hình ảnh cụ thể, cùng với nghệ thuật điệp cấu trúc và phép tăng tiến, ta như ngỡ mình đang ngắm nhìn một gia đình hạnh phúc, ấm êm và có cả những tiếng bi bô của em bé tập nói, những bước chân đầu đời mà em cố gắng đạt được. Có lẽ vui hơn em không ai khác chính là những người sinh thành, là cha mẹ của em, là những người nâng niu, nâng đỡ em từng ngày. Qua đó, người cha muốn nói với con rằng dù đi bất cứ nơi đâu, làm gì thì hãy luôn nhớ đến cội nguồn sinh dưỡng của con, nơi sinh ra con. Bởi đây là bến đỗ mãi luôn dang tay chào đón con khi con thành công hay thất bại, khi con cần chỗ dựa bình an nhất thì nơi ấy – gia đình, sẽ là bờ vai cho con.

Bên cạnh tình yêu của gia đình con còn được lớn lên trong tình yêu của bản làng, của quê hương,trưởng thành dưới cuộc sống lao động nhộn nhịp của người đồng mình, của bản sắc thiên nhiên vô cùng cao đẹp:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.

Nếu 4 câu thơ đầu là những khoảnh khắc ngọt ngào, ấm áp của gia đình thì ở đây, Y Phương đã miêu tả cuộc sống lao động cần cù, đầy nghệ thuật của quê hương, của người đồng mình với những hình ảnh: Đan lờ cài nan hoa ;Vách nhà ken câu hát . Điệp từ “cho”cùng với hình ảnh nhân hóa mà tác giả đã sử dụng ở trên cho ta thấy rằng : không những được lớn lên trong cuộc sống lao động mà con cũng sẽ được lớn lên trong bản sắc thiên nhiên của quê hương, lớn lên trong sự chứa chan nghĩa tình của người đồng mình, của cuộc sống vui tươi, đầy sắc màu của cuộc sống. Nghĩ đến khung cảnh đứa con gái của mình trong một tương lại không xa ấy, Y Phương lại một lần nữa quay về hồi ức của gia đình và xa hơn thế nữa chính là “ ngày cưới” – Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. Là sự khởi đầu của một tổ ấm hạnh phúc,cũng là nơi khởi nguồn những tình cảm thiêng liêng nhất của đời người.

Trong cái dư vị của cuộc sống lao động, kỉ niệm quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất cao quý của người đồng mình là sức mạnh bền bỉ của quê hương và mong con có thể kế tục những truyền thống cao đẹp đó :

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

Ở đây ta là bắt gặp một lần nữa hình ảnh “ người đồng mình” nhưng lại là “thương “chứ không phải là “ yêu” như ở khổ 1một. Ở khổ thơ đầu tác giả đã sử dụng từ “ yêu” , yêu ở đây là yêu cái cuộc sống lao động nhộn nhịp của quê hương, yêu bản làng thơ mộng, những tấm lòng chân thiện nghĩa tình , thì từ “ thương” ở khổ thơ thứ hai là thương cho cuộc sống gian nan vất vả của người đồng mình. Từ đó bộc lộ tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả.

Ở câu thơ tiếp theo tác giả đã sử dụng phép so sánh lấy cái trừu tượng để miêu tả cái cụ thể. Tính từ “ cao” thường dùng để đo tầm vóc, từ “ xa” để chỉ quãng đường đi của con người. Nhưng điều quan trọng nhất ở con người không phải là hình thức bên ngoài mà là đời sống bên trong tâm hồn.Và đời sống tâm hồn của người đồng mình chính là sự giàu ý chí, nghị lực, không ngừng vươn lên trong cuộc sống. Tác giả đã làm nổi bật đức tính cao đẹp ấy của quê hương mình, đồng thời cũng là niềm tự hào và là bài học mà ông muốn nhắn gửi đến con.

Bên cạnh sự ý chí nghị lực vươn lên ấy, mà “ người đồng mình” còn có phẩm chất cao đẹp khác, đó là lòng thủy chung, gắn bó với quê hương dù khó khăn, đói nghèo chỉ cần sớm tối bên nhau, truyền cho nhau chút lửa, thì dù nghịch cảnh nào chăng nữa đều có thể vượt qua:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Với hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê như “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” gợi tả cho ta thấy sự khó khăn gian khổ của những con người nơi đây. Điệp từ “ sống”, “ không chê” và thành ngữ “ lên thác xuống ghềnh “ mà tác giả đã sử dụng trên khổ thơ là muốn nhấn mạnh, khẳng định rằng : dù có vất vả đấy, có gian nan đấy, nhưng trái tim của những con người ở quê hương này chưa bao giờ là mệt mỏi, mà vẫn luôn bền bỉ, đập vỡ những rào cản của cuộc đời, sống 1 cuộc sống tự do, khoáng đạt, rộng lớn như “ sông như suối”, sải cánh mạnh mẽ, tự tin mà bay khắp bốn phương trời…..

Ngoài những phẩm chất cao đẹp về ý chí, nghị lực, về lòng thủy chung với quê hương mà “người đồng mình” còn có đức tính cao quý hơn thế nữa, đó lòng yêu bản làng, tôn cao vẻ đẹp truyền thống cao vời của quê hương, của người đồng mình:

‘Người đồng mình thô sơ da thịt,

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con,

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương.

Còn quê hương thì làm phong tục”.

Có lẽ hình ảnh “ thô sơ da thịt” không còn xa lạ với chúng ta, gợi cho chúng ta thấy sự mộc mạc, đơn giản về vẻ ngoài của những con người quê hương nơi đây, của những người dân tộc miền núi. Tuy thế mà người đồng mình không hề “ nhỏ bé” một chút nào, “thô sơ“ về vẻ ngoài nhưng giàu về đời sống tâm hồn. Là những người luôn “tự đục đá kê cao quê hương”, tự xây dựng bản thôn, bản làng, phát triển quê hương, biến nó trở thành nơi đầy ắp những tiếng cười của gia đình hạnh phúc, tiếng trò chuyện của những “ người đồng mình”. Là những con người giàu ý chí vươn lên trong cuộc sống và giàu lòng chung thủy với nơi quê cha đất tổ – nơi sinh ra của mình, để rồi những đức tính cao đẹp ấy trở thành “phong tục” của quê hương, của dân tộc Đại Việt này, để những phẩm chất tuyệt vời ấy trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc ta.

Với những bài học tha thiết về nơi cội nguồn sinh dưỡng, về sự chan chứa nghĩa tình của người đồng mình, thì giờ đây những câu thơ kết chính là lời tâm tình, dặn dò, nhắn nhủ của người cha, chuẩn bị cho con những hành trang trước cuộc đời lắm bão giông, gian khổ:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”

Ở đây hình ảnh “thô sơ da thịt” lại một lần nữa được nhắc đến, khẳng định sự kiên cường, bản lĩnh to lớn của người đồng mình, cũng là sự gan dạ tự tin của con bởi con cũng là 1 thành viên trong gia đình quê hương dân tộc Tày này: “ thô sơ” nhưng không hề “ nhỏ bé”, mộc mạc giản dị nhưng lại bền bỉ, mạnh mẽ trên bước đường đời phía trước của mình, không bao giờ chịu bỏ cuộc. Hai từ “ nghe con “ở cuối bài, như thể ngân vang mãi trong trái tim của người con và cả những trái tim của bạn đọc, nó dịu dàng, tha thiết và sâu lắng làm sao. Hai từ ấy như một sự đúc kết trọn vẹn cho những bài học đường đời – bài học về cội nguồn, về quê hương, phẩm chất đáng có mà cha đã dạy con. Nhắn gửi đến con và mong con, mong cả những người trẻ trong xã hội lúc bấy giờ- những người lãng quên quê hương, Tổ Quốc vì thấy đất nước đói nghèo mà tìm cách vượt biên ,mong họ có thể thức tỉnh mà khắc sâu bài học mà Y Phương thầm gửi nhắn đế họ.

Với thể thơ tự do, câu dài câu ngắn rất phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của người dân vùng núi. Hình ảnh thơ mang đậm chất của núi rừng, sông suối. Kết hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, nhẹ nhàng. Y Phương đã thành công khắc sâu trong tâm khảm bạn đọc về những bài học quý giá mà ông đã nhắn nhủ tới con đồng thời cũng là gửi gắm tới bạn đọc về tình yêu quê hương, Tổ quốc và phẩm chất đáng quý của dân tộc.

Khép lại trang sách, những vầng thơ dịu dàng của Y Phương vẫn dư âm mãi trong trái tim bạn đọc, những dư âm đấy là chính là những lời thủ thỉ tâm tình của người cha miền núi, là lời tâm sự của nhà thơ với độc giả, đặc biệt là lớp thanh niên Việt Nam trong thời kì xây dựng đất nước lúc bấy giờ là sự động viên, là một lời nhắc nhở về nơi “ chôn nhau cắt rốn” của mỗi người, nơi chất chứa những tâm hồn Việt, phẩm chất Việt và con người Việt Nam. Và bản thân chúng ta – những con người nối bước bước chân của thế hệ cha ông , việc của chúng ta trước hết phải học tập thật giỏi để mai sau có thể dùng những kiến thức ấy mà xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm chủ nước nhà.

5. Danh sách đề thi phân tích bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương

Đề 1: Cảm nhận của em về những điều cha nói với con trong khổ thơ đầu bài Nói với con: ( *)

Chân phải bước tới chaChân trái bước tới mẹMột bước chạm tiếng nóiHai bước tới tiếng cườiNgười đồng mình yêu lắm con ơiĐan lờ cài nan hoaVách nhà ken câu hátRừng cho hoaCon đường cho những tấm lòngCha mẹ mãi nhớ về ngày cướiNgày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Đề 2: Phân tích khổ thơ 2 bài thơ Nói với con ( *)

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớnDẫu làm sao thì cha vẫn muốnSống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đóiSống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọcNgười đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tụcCon ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.”

Đề 3: Cảm nhận của em về những điều cha nói với con trong bài Nói với con

Đề 1: Cảm nhận của em về những điều cha nói với con trong khổ thơ đầu bài Nói với con

A. Mở bài

Cách 1: Y Phương là một trong số ít những nhà thơ dân tộc tày, Thơ ông chủ yếu viết về đề tài quê hương mình. Các bài thơ của ông đều thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. “Nói với con” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy. Đọc bài thơ ta cảm nhận được tình cảm thiêng liêng, ấm áp của gia đình và cụ thể hơn đó là tình phụ tử. (Tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong khổ đầu của bài thơ…)

Cách 2: Tình cảm gia đình – thứ tình cảm ấm áp, thiêng liêng nhất trong trái tim mỗi con người đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca Việt Nam. Ta đã từng bắt gặp tình cảm thiêng liêng ấy trong bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên, trong “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Và đến với “Nói với con” một thi phẩm thơ nổi tiếng của Y Phương, một lần nữa ta lại được cảm nhận cái thiêng liêng, ấm áp của tình cảm gia đình mà cụ thể hơn chính là tình phụ tử. Đến với bài thơ ( đặc biệt là khổ thơ…) ta hiểu được những lời nhắn nhủ tha thiết của Y Phương với con.

B. Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm

– Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi thế hệ nhà thơ vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 21 năm. Nền kinh tế nước ta lúc ấy như người bệnh trọng mới hồi dậy. Cái nghèo khó phủ lên từng con phố, bản làng … Nhà thơ Y Phương viết “ Nói với con” nhằm động viên tinh thần và tôn vinh dân tộc tày của mình qua hình thức tâm sự của người cha với con ( Lúc này con gái nhà thơ mới được 1 tuổi). Tình yêu con lớn dần cùng tình yêu dân tộc, vừa xúc động thiêng liêng vừa chân thành mạnh mẽ, trong sáng.

– Vị trí đoạn thơ: Khổ thơ trên nằm ở phần đầu của bài thơ, là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.

2. Cảm nhận về những lời nhắn nhủ của Y phương

a. Nhắc nhở con về cội nguồn gia đình

– Mở đầu bài thơ, là lời người cha nói với con chính là cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con – đó là tình gia đình:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếngcười.

– Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười”….

– Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười.

– Lời thơ gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói, lúc thì sa vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha.

– Ta có thể hình dung được gương mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long lanh rạng rỡ cùng với vòng tay dang rộng của cha mẹ đưa ra đón đứa con vào lòng. Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc tràn đầy.Cả ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ.Mỗi bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui. Trong tình yêu thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn khôn từngngày.

=> Tình cha mẹ – con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt đã được hình thành từ những giây phút hạnh phúc bình dị, đáng nhớ ấy

=> Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình sâu kín của mỗi con người nên tạo được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả.

b. Nhắc nhở con về cội nguồn quê hương

– Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến không chỉ là gia đình mà còn là quê hương, là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Như bầu sữa tinh thần thứ hai, quê hương với cuộc sống lao động, với thiên nhiên tươi đẹp, tình nghĩa đã nuôi dưỡng, sẻ chia giúp cho contrưởng thành.

– Quê hương vốn là một khái niệm vô hình nhưng rất đỗi thân thương. Với mỗi người, quê hương hiện lên với những nét khác nhau. Nếu như với Tế Hanh, quê hương là “con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những hàng tre”, với Đỗ Trung Quân, “quê hương là chum khế ngọt”, “ là con diều biếc” thì với Y Phương, quê hương chính là người đồng mình, là rừng, là núi:

Người đồng mình yêu lắm, con ơi!

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát.

– Quê hương hiện ra qua hình ảnh của “người đồng mình”. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương.

=> Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu mến.

– Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý bởi sự khéo léo trong lao động: “Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát”. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật đẹp! Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn.

– Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý bởi sự lạc quan trong cuộc sống: Họ dựng nhà gỗ, tre, nứaVách nhà không chỉ được ken bằng những vật liệu đó, mà còn được ken bằng những câu hát. Câu thơ “ Vách nhà ken câu hát” gợi người đọc hướng tới một điều trong quá trình lao động dựng nhà, dựng cửa người đồng mình luôn cất cao tiếng hát. Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong cuộc sống lao động.

=> Cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết bao?

* Chuyển ý: Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn,cũng là quê hương với thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình.Qua lời của người cha quê hương còn được hiện hữu qua hình ảnh “rừng” và con đường:

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

– Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng… Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực – như một đặc điểm của rừng – và khi đặt trong mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”.

– Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đem đến cho con người những thứ cần để lớn, giành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn vàlối sống.

=> Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm.

* Chuyển ý: Cuối cùng, cội nguồn sinh thành, nuôi dưỡng mỗi người trưởng thành chính là những kỉ niệm êm đềm đẹp đẽ, hạnh phúc và tuyệt vời nhất của cha mẹ:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

– “Ngày cưới” chính là minh chứng tuyệt vời nhất cho tình yêu của cha mẹ và con cũng chính là kết tinh của tình yêu ngọt ngào ấy. “Ngày cưới” là ngày gặp gỡ của những tấm lòng, của những con người quê hương.

– “Ngày đầu tiên đẹp nhất” ấy có thể là ngày cưới của cha mẹ nhưng nó cũng có thể là ngày con chào đời, ngày bố mẹ được hạnh phúc đón chờ con. Người cha nhắc đến những kỉ niệm ngày cưới của mình với con – điểm tựa của hạnh phúc – chính là để mong con luôn nhớ, con lớn lên trong tình yêu trong sáng và hạnh phúc của cha mẹ. Con là kết quả của tình yêu và hạnh phúc gia đình. Đó là điểm xuất phát mọi tình yêu thương trong con. Như vậy, tình cảm riêng đã hoà vào tình cảm chung, tình cảm gia đình đã hòa vào tình cảm quê hương, đất nước.

Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh đứa con, kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ, mở ra bằng cội nguồn gia đình, kết thúc bằng cội nguồn quê hương, gia đình và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời. Quê hương và gia đình sẽ mãi mãi luôn bên nhau, nâng đỡ con trong suốt hành trình dài của cuộc đời.

– Theo nhà thơ Y Phương chia sẻ: Tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: Khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc.

=> Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới quê hương.

=> Đoạn thơ vừa là một lời tâm tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầy tin cậy của người cha trao gửi tới con.

* Liên hệ mở rộng: Tâm sự với con về tình cảm thiêng liêng đó chắc hẳn nhà thơ muốn nhắn nhủ với con rằng: Con hãy yêu gia đình, yêu quê hương mình đừng bao giờ quên cội nguồn sinh dưỡng đó bởi đúng như nhà thơ Đỗ Trung Quân từng viết:

“ Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người”

3. Đánh giá

Bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng: vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình, nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản – đó là cái nôi đã nuôi con khôn lớn, là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi điều đó. Và sau mỗi lời thơ ấy, người đọc dễ dàng nhận ra được tình yêu thương vô bờ bến mà Y Phương dành cho cô con gái đầu lòng, dành cho Trùng Khánh quê hương ông. Tình cảm đẹp đẽ ấy thật đáng trân trọng.

C. Kết luận

Qua lời thủ thỉ, tâm tình của người cha nói với con, với cách tư duy diễn đạt giàu hình ảnh của người miền núi, kết hợp với hình thức tâm tình, trò chuyện nhẹ nhàng của người cha, hình ảnh của quê hương, của người đồng mình hiện lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là suối nguồn ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và ý chí cho con. Khép lại trang thơ, người đọc không chỉ thấy được chất Tày thấm đượm trong từng câu, từng chữ, hình ảnh mà còn thấy được tình cảm gia đình chính là thứ tình cảm vô cùng cao quý và thiêng liêng song hành cùng với tình yêu của đất nước, của quê hương. Nó chính là thứ động lực mãnh liệt để vun đắp và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người.

Đề 2: Phân tích khổ thơ 2 bài thơ Nói với con

A. Mở bài

Cách 1: Y Phương là một trong số ít những nhà thơ dân tộc tày, Thơ ông chủ yếu viết về đề tài quê hương mình. Các bài thơ của ông đều thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. “Nói với con” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy. Đọc đoạn thơ trên ta hiểu được lời của người cha nói với con về những phẩm chất tốt đẹp, những truyền thống đáng tự hào của người đồng mình và niềm kì vọng con sẽ kế tục xứng đáng truyền thống ẩy: ( thơ…)

Cách 2: Tình cảm gia đình – thứ tình cảm ấm áp, thiêng liêng nhất trong trái tim mỗi con người đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca Việt Nam. Ta đã từng bắt gặp tình cảm thiêng liêng ấy trong bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên, trong “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Và đến với “Nói với con” một thi phẩm thơ nổi tiếng của Y Phương, một lần nữa ta lại được cảm nhận cái thiêng liêng, ấm áp của tình cảm gia đình mà cụ thể hơn chính là tình phụ tử. Đọc đoạn thơ trên ta hiểu được lời của người cha nói với con về những phẩm chất tốt đẹp, những truyền thống đáng tự hào của người đồng mình và niềm kì vọng con sẽ kế tục xứng đáng truyền thống ẩy: ( thơ….)

B. Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm

– Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi thế hệ nhà thơ vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 21 năm. Nền kinh tế nước ta lúc ấy như người bệnh trọng mới hồi dậy. Cái nghèo khó phủ lên từng con phố, bản làng … Nhà thơ Y Phương viết “ Nói với con” nhằm động viên tinh thần và tôn vinh dân tộc tày của mình qua hình thức tâm sự của người cha với con ( Lúc này con gái nhà thơ mới được 1 tuổi). Tình yêu con lớn dần cùng tình yêu dân tộc, vừa xúc động thiêng liêng vừa chân thành mạnh mẽ, trong sáng.

– Vị trí đoạn thơ: Đoạn trích trên nằm ở phần thứ hai và cũng là phần cuối của bài thơ. Là lời của người cha nói với con về những phẩm chất tốt đẹp, những truyền thống đáng tự hào của người đồng mình và niềm kì vọng con sẽ kế tục xứng đáng truyền thống ẩy

2. Cảm nhận về những lời nhắn nhủ của Y phương

a. Nhắc lại nội dung đoạn 1

Ở khổ thơ đầu, bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi, Y Phương đã nói với con về cội nguồn sinh dưỡng. Ông muốn nói với con rằng gia đình và quê hương chính là cái nôi đầu tiên của cuộc đời mỗi con người, là nơi ta được lớn lên, được yêu thương che chở. Từ đó lời thơ nhắc nhở người đọc cần biết trân trọng gia đình và quê hương của chính mình.

b. Nhắc nhở con về những phẩm chất đẹp đẽ của người đồng mình

– Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình.

Luận điểm 1: Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước ( Giàu ý chí, nghị lực ).

* Chuyển ý: Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

Người đồng mình thương lắm con ơi!

– Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm xúc “ Thương lắm con ơi”. Nếu trong khổ thơ trên người đồng mình “yêu lắm con ơi” – yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói với con “thương lắm con ơi” – bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương => Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.

* Chuyển ý: Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động, mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chi lớn.

– Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy sự từng trải (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ. Qua đó ta thấy rằng người đồng mình sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ. Họ nhẫn nhục chịu đựng nỗi buồn dai dẳng của mảnh đất quê hương. Điều này khẳng định người đồng mình thật can trường, dũng mãnh, không khuất phục trước hoàn cảnh biết vươn lên..

=> Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.

Luận điểm 2: Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.

* Chuyển ý: Với niềm tự hào về ý chí, nghị lực và truyền thống tốt đẹp của “ người đồng mình”, cha mong con luôn sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

– Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” => gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc của những người đồng mình

– Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.

* Chuyển ý: Đồng thời người cha khuyên con phải có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống:

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

– Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.

– Người cha khuyên con hãy sống cuộc đời rộng lớn, tự do, khoáng đạt, không thụ động chấp nhận thực tại mà luôn hướng tới tương lai không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường. Đã có biết bao nhà thơ, nghệ sĩ viết về vấn đề này.

– Thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh” gợi bao nỗi vất vả, lam lũ. Cách nói ẩn dụ “lên thác xuống ghềnh” kết hợp lời nói mộc mạc thường ngày “không lo cực nhọc”, cha khuyên con hãy sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách của cuộc đời, không được chùn bước, nản chí. Nên con hãy ngẩng cao đầu dũng cảm vượt qua chông gai, thử thách của cuộc đời. Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của quê hương.

=> Cha dặn con điều đầu tiên con phải sống ân nghĩa thủy chung vì đây là nền tảng hình thành nên giá trị một con người.

Luận điểm 3: Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:

* Chuyển ý: Phẩm chất của những con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

– Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.

– Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.

– Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.

– Phẩm chất của con người quê hương được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi. Tuy “người đồng mình” không mấy đẹp đẽ ở hình thức “thô sơ da thịt” nhưng luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần lớn lao, không bao giờ nhỏ bé, không bao giờ thôi ước vọng vươn cao. Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương.

* Chuyển ý: Lời cha giản dị, ân cần trang nghiêm, chắc nịch đã giúp đứa con nhận ra rằng chính nhờ những “người đồng mình” như thế, những con người có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

– Lối nói của Y Phương đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.

– Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi), vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương. Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.

– Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình. “Đục đá” là công việc vô cùng nặng nhọc, đòi hỏi phải bền bỉ, nhẫn nại. “Đục đá” vào ý thơ đã trở thành hình ảnh sinh động, gợi cảm. Bởi qua ý thơ, hình ảnh ấy giúp ta hình dung hiện thực người dân lao động miền núi bằng khát vọng và ý chí “đục đá kê cao quê hương” đã tôn tạo vẻ đẹp văn hóa của dân tộc với bao thiên tai, bão lũ, bao bọn giặc hung tàn để gìn giữ, bảo vệ quê hương của cả dân tộc. Đó là hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả đồi…, là hình ảnh anh hùng Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-Lây thân yêu, làm nên chiến tích lịch sử. Cách mạng hào hùng cho quê hương, đất nước…. Hình dung ra điều ấy, ta mới thấy chi tiết “đục đá kê cao quê hương” là một hình ảnh ấn tượng, chứa chan niềm tự hào cao độ của nhà thơ đối với dân tộc thân yêu.

* Chuyển ý: Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

– Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia đình – quê hương để bước vào một trang đời mới.

– Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường” có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.

– Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con. Câu thơ còn gợi ra một cảnh tượng cảm động đang diễn ra lúc chia li: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người con ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe lời cha dặn.

=> Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.

=> Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.

– Nhịp thơ chậm rãi chân thành, nghe như lời nhắn nhủ tha thiết từ trái tim người cha. Một lần nữa người cha khẳng định người đồng mình “thô sơ da thịt”, đó là hình ảnh đáng trân quý và tự hào. Hình ảnh của sự vất vả, lam lũ nơi núi rừng bạt ngàn. Hình ảnh khỏe khoắn, rắn rỏi của người dân lao động miền núi. Vẻ ngoài tuy không đẹp, tuy thô sơ, chân chất mộc mạc nhưng người cha nhắn con hãy nhớ, dù đi đâu, con cũng không bao giờ ngừng nuôi chí lớn, hãy luôn tự hào về quê hương dân tộc, hãy sống với khát vọng và đam mê. Người dân quê ta có thể nhỏ bé về vóc dáng, thô sơ về vóc dáng nhưng khí phách, tinh thần thì thật lớn lao. Sự đối lập giữa hình thể và tâm hồn càng khẳng định niềm tự hào về những con người dân tộc miền núi, càng cho thấy được tình yêu thương, tự hào của người cha dành cho quê hương. Câu cuối “nghe con” nghe vừa nhẹ nhàng mà vừa dứt khoát như lời nhắn nhủ và khẳng định: trên đường đời, dù con có đi đâu làm gì cũng hãy tự hào về dân tộc, về những con người của núi rừng, luôn mang trong mình khát khao, nghị lực, khí phách lớn lao.

=> Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa, mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ – bài học về niềm tin,nghị lực, ý chí vươn lên.

3. Đánh giá

Bằng giọng thơ vừa thiết tha, trìu mến vừa trang nghiêm và các hình ảnh thơ cụ thể, chọn lọc, đoạn thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn những phẩm chất đẹp đẽ của người đồng mình. Người đồng minh là những người giàu ý chí nghị lực và niềm tin, luôn thủy chung tình nghĩa, phóng khoáng lãng mạn … Và đằng sau những vần thơ ấy, ta nhận ra tình yêu, niềm tự hào và sự gắn bó sâu nặng của nhà thơ với con người quê hương mình. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.

C. Kết luận

Qua lời thủ thỉ, tâm tình của người cha nói với con, với cách tư duy diễn đạt giàu hình ảnh của người miền núi, kết hợp với hình thức tâm tình, trò chuyện nhẹ nhàng của người cha, hình ảnh của quê hương, của người đồng mình hiện lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là suối nguồn ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và ý chí cho con. Khép lại trang thơ, người đọc không chỉ thấy được chất Tày thấm đượm trong từng câu, từng chữ, hình ảnh mà còn thấy được tình cảm gia đình chính là thứ tình cảm vô cùng cao quý và thiêng liêng song hành cùng với tình yêu của đất nước, của quê hương. Nó chính là thứ động lực mãnh liệt để vun đắp và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người.

Đề 3: Cảm nhận của em về những điều cha nói với con trong bài Nói với con

A. Mở bài

Tình cảm gia đình là một nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi sĩ, thế nhưng hầu hết các bài thơ khi viết về đề tài tình cảm gia đình đều nói về tình mẫu tử. Các tác phẩm về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương là 1 trong những tác phẩm đó. Với giọng điệu thổ cẩm ngọt ngào, bài thơ mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm bọc của quê hương với con để ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.

B. Thân bài

Ra đời năm 1980, bài thơ như là những lời nói xuất phát từ tấm lòng cha, chứa đựng đầy yêu thương và sự ấm áp, thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, mang đậm chất dân tộc miền núi trong từng câu chữ. Bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mới mở rộng và nâng cao thành tình cảm quê hương, đất nước. Từ những kỷ niệm gần gũi, gắn bó nhất với mỗi con người và nâng lên thành lẽ sống chung. Bài thơ mở đầu với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Khung cảnh ấy đẹp như vẽ, một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương. Bằng ý thơ đối ứng hình ảnh đứa trẻ ngây thơ chập chững tập đi, ngọng nghịu tập nói trong vòng tay thương yêu, chăm sóc của cha mẹ hiện lên thật rõ nét. Không khí của một gia đình ấm êm, hạnh phúc được diễn tả bằng cách sử dụng hình ảnh thực và cụ thể.

Cha như dang tay che chở từng bước đi lẫm chẫm của con, cha lo lắng sợ con vấp ngã. Mỗi bước đi của con đều có cha mẹ ở bên dìu dắt, mỗi tiếng cười, tiếng nói đều có cha mẹ ở bên khuyến khích. Điệp ngữ “Bước tới” thể hiện niềm sung sướng và đầy tự hào của cha khi thấy con đang lớn lên. Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hương thơ mộng và tình quê hương sâu nặng:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Người cha tự hào về những người cùng sống trên mãnh đất quê hương đã nuôi dưỡng cho con mình nên vóc nên hình và đã bật lên câu “Người đồng mình yêu lắm con ơi”. Cuộc sống lao động tươi vui và cần cù của “người đồng mình” được gợi lên qua những hình ảnh đẹp “Đan lờ cài nan hoa”, “vách nhà ken câu hát” một cách thật cụ thể và sinh động. Đồng thời các động từ “đan”, “cài” và “ken” vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự gắn bó, quấn quýt trong lao động của “người đồng mình”.

Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của “người đồng mình”tươi vui, mà rất ngọt ngào . Công việc tuy nặng nhọc, vất vẻ nhưng “ người đồng mình” luôn lạc quan, vui vẻ “hát”, “cài nan hoa”. Tất cả những hình ảnh ấy vừa nói lên vẻ đẹp cao qúy của “người đồng mình” vừa nhắc nhở con phải biết yêu thương, quý trọng “người đồng mình” vì họ đã cho con tình yêu thương, bảo bọc con lớn khôn.

Thiên nhiên quê hương cũng thật đẹp, luôn dành cho con những gì tinh túy nhất. “Rừng” và “con đường” là bóng dáng của quê hương luôn dang rộng vòng tay đã được tác giả nhân hóa, dạy cho con biết rằng núi rừng quê hương, thiên nhiên đã chở che, nuôi dưỡng con người về cả tâm hồn và lối sống. Con đã lớn lên trong nghĩa tình của quê hương như thế.

Qua những câu thơ vừa tả thực lại vừa đậm chất trữ tình, cha mong con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuộc sống hơn . Nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ đã nghĩ về cuội nguồn hạnh phúc, “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” và cho con biết chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu.

Dặn dò con về quê hương, về “đồng mình”, cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi mình đã sống ,đã trưởng thành. Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

“Người đồng mình” không chỉ tình nghĩa và tài hoa mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp, “thương lắm con ơi”. Trong bao gian khổ, khó khăn thử thách, bao niềm vui, nỗi buồn trong cuộc đời trải dài theo năm tháng, “người đồng mình” đã rèn luyện , hun đúc chí khí, rèn luyện bản thân. Câu thơ bốn chữ, đối nhau như tục ngữ, đúc kết một thái độ một phương châm ứng xử cao quý. Lấy chiều “cao” của trời, chiều “xa” của đất để “ đo nỗi buồn”, để “ nuôi chí lớn”.

Câu thơ thể hiện một bản lĩnh sống cao đẹp của người dân miền núi, của con người Việt Nam. Lời tâm tình của người cha nói với con cũng là lời khuyên răn con phải biết trân trọng mảnh đất quê hương, nơi mình sinh ra và lớn lên. Người cha tự hào về “người đồng mình” sống vất vả và mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó sâu nặng với quê hương dẫu cực nhọc, đói nghèo. Người cha mong con chung thuỷ với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí, bằng niềm tin vững vàng:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Với các hình ảnh so sánh, ẩn dụ và sử dụng thành ngữ, cha đã nói với con về những tính cao đẹp của “người đồng mình”. Điệp ngữ “ sống” vang lên ba lần như lời khẳng định tâm thế, bản lĩnh và dáng đứng dũng mãnh của “người đồng mình”. Đó là sống vất vả nhưng vẫn mạnh mẽ khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu cho quê hương còn đói nghèo cực nhọc.

Con phải sống có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua thử thách gian nan. Đó là những điều mà cha “vẫn muốn”, cha mong con, hy vọng ở con. Lời thơ giản dị mà chắc nịch, lay động thấm thía vào lòng người. Những câu thơ tiếp theo là lời khẳng định với con, “ người đồng mình” tuy mộc mạc thô sơ nhưng không nhỏ bé:

“ Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

Để phản ánh bản chất giản dị của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, tác giả dùng cách nói cụ thể, hình ảnh chân thật “ thô sơ da thịt”. “ Người đồng mình” mộc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thề “thô sơ da thịt” nhưng “ không hề nhỏ bé” về tâm hồn, về khí phách và ý chí nghị lực. Từ đó để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị, chất phác, không hề “ nhỏ bé” tầm thường.

Họ mong ước xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. Với lối nói độc đáo của người dân tộc miền núi “ người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”, người cha đã cho con thấy tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội của “người đồng mình”. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đã tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương. Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình, lời của cha càng trở nên thật tha thiết:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”

Người cha đã nhắc con khi “ lên đường” không bao giở sống “ nhỏ bé” trước thiên hạ. Phải biết lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của người lao động để vươn lên. Người cha mong con có đủ sức mạnh, niềm tin để đối mặt với những khó khăn mà con sẽ phải gặp, cũng khuyên con bài học đạo lý làm người, mong muốn con phải biết ơn và tự hào với dân tộc mình, quê hương mình, để đủ tự tin, đủ sức mạnh để vững bước trên đường đời.

Hai tiếng “nghe con” đầy trìu mến, yêu thương kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của người cha đối với đứa con thân yêu của mình. Bài thơ có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết tha, triều mến, chân tình và rất mới lạ trong phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng.

C. Kết luận

“Nói với con” được viết bằng thể thơ tự do bay bổng phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm sang con. Lời nhắn nhủ ân cần của người cha với con mình cũng là nhắn nhủ mà người cha nào cũng muốn con mình mang theo như một hành trang trong cuộc đời.

Qua đó ta phải biết tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời cũng cần phải biết yêu thương quê hương, gia đình mình và phải có ý chí, nghị lực vươn lên trước những chướng ngại của cuộc đời.