SỞ HỮU VÀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI IX

SỞ HỮU VÀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ

THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI IX

NGÔ ĐẠT

Thạc sĩ Kinh tế, Giảng viên Khoa Khoa học cơ bản, trường ĐH Luật TP. HCM

1. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất thể hiện qua ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý trong sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Mỗi mặt có vai trò, vị trí khác nhau nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Trong đó mặt cơ bản là quan hệ sở hữu vì ai nắm tư liệu sản xuất thì người đó chi phối quá trình tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm làm ra. Nhưng tổ chức quản lý và phân phối luôn có tác động trở lại đối với sở hữu. Do vậy trong ba mặt của quan hệ sản xuất không nên tuyệt đối hóa mặt nào.

Thế nhưng trước đây chúng ta đã có những nhận thức chưa đúng, nổi bật là đã tuyệt đối hóa mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, nên đã đẩy nhanh quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa để xóa bỏ hình thức sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác nhằm xác lập chế độ công hữu dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.

Đối với sở hữu tập thể, mọi tư liệu sản xuất của người lao động từ cái cày, cái cuốc, con trâu đến ruộng đất đều bị tập thể hóa. Từ đó quá trình sản xuất và phân phối đều do ban quản trị điều hành. Thế nhưng toàn bộ tài sản được tập thể hóa cũng không phải là của xã viên mà cũng không phải của ban quản trị, cũng không phải của nhà nước. Nó chẳng của ai cả, vô hình trung đã trở thành không có chủ đích thực. Quy mô của hợp tác xã càng lớn thì tính vô chủ đối với tư liệu sản xuất càng cao. Do đó phát sinh tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ biến. Từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế ngày càng giảm sút và người xã viên không gắn bó cùng hợp tác xã.

Đối với sở hữu toàn dân, loại sở hữu này cũng dẫn đến tình trạng vô chủ vì người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh chỉ là người làm công ăn lương. Còn giám đốc tuy do nhà nước bổ nhiệm nhưng họ cũng là người hưởng lương như người lao động. Quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm do Ủy ban Kế hoạch nhà nước quyết định. Ở đây, kế hoạch: nhà nước giao; vốn: nhà nước cấp; giá: nhà nước định; lãi: nhà nước thu; lỗ: nhà nước bù.

Đây chính là cơ sở kinh tế xã hội làm phát sinh tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham ô, móc ngoặc. Thực chất của chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể ở nước ta là như vậy, nhưng chúng ta lại lầm tưởng đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và đã cố gắng bảo vệ nó.

Từ tuyệt đối hóa mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, chúng ta đi đến tuyệt đối hóa quan hệ sản xuất, đi ngược lại quy luật kinh tế khách quan là đẩy mạnh việc xây dựng quan hệ sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Cách làm này đã không tạo được điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển mà trái lại kìm hãm lực lượng sản xuất.

Như vậy, với chế độ công hữu hình thức, áp đặt, chúng ta đã nhanh chóng xóa bỏ các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thực tế là đã triệt tiêu động lực kinh tế làm cho nền kinh tế không phát triển, đời sống khó khăn, tiêu cực phát triển.

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã thổi luồng gió mới vào đời sống kinh tế ở nước ta. Trong đại hội này, Đảng ta thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót trong nhận thức và chỉ đạo về sở hữu và các thành phần kinh tế, cũng như việc vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ: Trong nhận thức và trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.

Trên cơ sở nhận thức lại lý luận và thực tiễn Việt Nam, Đảng ta đã có những nhận thức mới đúng đắn và khoa học về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, từng bước khơi dậy được động lực hoạt động kinh tế trong các thành phần dân cư; nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và những thành phần kinh tế. Từ đó thay đổi cơ chế quản lý và cơ chế phân phối, cụ thể là chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ cơ chế phân phối bình quân sang cơ chế phân phối theo lao động và tài sản đóng góp. Đồng thời đã nhận thức rõ hơn về sở hữu qua các quyền năng như: quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng, quyền định đoạt, quyền hưởng lợi, nhờ đó khắc phục được tình trạng vô chủ trước đây.

Đại hội Đảng lần thứ VII và chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2000, Đảng ta khẳng định: Nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong đó có ba hình thức cơ bản đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu cơ bản này mà hình thành nhiều hình thức tổ chức và nhiều thành phần kinh tế. Cụ thể có năm thành phần kinh tế:

– Kinh tế quốc doanh;

– Kinh tế hợp tác;

– Kinh tế tư bản tư nhân;

– Kinh tế cá thể, tiểu chủ;

– Kinh tế tư bản Nhà nước.

Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là vấn đề có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Các thành phần kinh tế tồn tại lâu dài và nằm trong một cơ cấu kinh tế thống nhất.

Tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới với những thành công và những hạn chế trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội Đảng lần thứ VIII lại có nhận thức đầy đủ thêm. Để phù hợp với thực tiễn phát triển, Đại hội đã thay cụm từ: kinh tế quốc doanh bằng cụm từ kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác xã thành kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã và đưa thành phần kinh tế tư bản nhà nước lên vị trí thứ ba.

2. Đại hội lần thứ IX của Đảng là đại hội của “ý Đảng lòng dân” về sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội đã có những bổ sung và phát triển về sở hữu và các thành phần kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của đất nước.

Về sở hữu: Đây là vấn đề cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng. Sở hữu về tư liệu sản xuất là yếu tố hàng đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định chế độ quản lý và chế độ phân phối. Vì thế vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất từ xưa đến nay luôn là vấn đề cơ bản và sâu xa của mọi cuộc cải cách kinh tế cũng như của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Khi nói đến chế độ sở hữu là nói chung, với hàm nghĩa là cơ sở của chế độ kinh tế. Loài người đã trải qua nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng tựu trung chỉ có hai chế độ sở hữu cơ bản. Đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Mỗi chế độ sở hữu lại có nhiều trình độ và hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau. chế độ công hữu có các trình độ và hình thức biểu hiện như: sở hữu công xã, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể…. Chế độ tư hữu cũng có nhiều trình độ và nhiều hình thức như: sở hữu của nông dân cá thể, sở hữu của người sản xuất hàng hóa nhỏ, sở hữu của địa chủ, sở hữu của nhà tư bản.

Hiện nay, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó tất yếu còn đan xen nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Tiếp tục phát triển những tư tưởng của Đại hội VII và Đại hội VIII về sở hữu, Đại hội IX khẳng định thêm một số tư tưởng:

– Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất, chủ yếu từng bước được xác lập và chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc.

– Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả sản xuất, quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.

Về các thành phần kinh tế: Quy luật của sự phát triển là phát triển không đều. Chính quy luật phát triển không đều về kinh tế, xã hội và tự nhiên đã làm xuất hiện trong nền kinh tế nhiều “kiểu cách làm ăn” với quy mô trình độ khác nhau và phù hợp với nó là những hình thức sở hữu tương ứng. Thêm nữa, để phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị – xã hội, Nhà nước phải xây dựng hệ thống những cơ sở kinh tế mới, hình thành nên khu vực Kinh tế nhà nước. Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế, thông qua hợp tác và đầu tư lại hình thành nên Kinh tế tư bản nhà nước. Đây là cơ sở kinh tế của việc hình thành các thành phần kinh tế khác nhau mà ngày nay nhiều khi gọi đó là khu vực kinh tế hay loại hình kinh tế.

Mục tiêu hàng đầu của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là giải phóng sức sản xuất, thực chất là tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân có điều kiện tham gia sản xuất kinh doanh, qua đó động viên tối đa mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước cho công cuộc phát triển kinh tế, nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đây chính là cơ sở xã hội của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.

Xuất phát từ thực tiễn những năm gần đây, Đại hội IX tái khẳng định quan điểm đổi mới của Đại hội VI, VII, VIII, đồng thời bổ sung một số điểm mới như sau:

– Một là, thay thành phần kinh tế hợp tác bằng thành phần kinh tế tập thể, trong đó hợp tác xã là nòng cốt.

– Hai là, nhận thức rõ hơn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, nên đưa thành phần kinh tế này lên vị trí thứ ba sau thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tập thể nhằm phát huy nội lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

– Ba là, bổ sung thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Như vậy hiện nay ở nước ta có sáu thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể trong đó nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Các thành phần kinh tế có thể có các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp, vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong cùng một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.

– Bốn là, phương hướng phát triển các thành phần kinh tế.

+ Thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế.

Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế nhà nước giữ vai trò then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năngsuất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.

Để làm được như vậy, trong 5 năm tới phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát triển các doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, một số lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo hướng sau:

* Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sơ các công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hóa một bước các tổng công ty nhà nước.

* Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần 100% vốn.

* Giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ.

* Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.

* Về mặt quản lý, nhà nước phải phân biệt về quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với doanh nghiệp dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước. Giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu với quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.

* Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xóa bao cấp, thực hiện cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp, có cơ chế kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước đối với doanh nghiệp.

+ Thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt, có thể dựa trên sở hữu tập thể, cũng có thể quyền sở hữu hợp pháp vẫn thuộc về các thành viên, nhưng quyền sử dụng lại mang tính chất tập thể.

Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện, rộng rãi của người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn, có thể kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành.

Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học, công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ phát triển hỗ trợ hợp tác, giải quyết nợ tồn đọng.

Khuyến khích việc tích lũy, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã.

+ Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn và thành thị hoạt động kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của người sở hữu là chủ yếu. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống… vì thế nó có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển. Do những ưu thế đó, Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài chính, tiêu thụ sản phẩm… để nó phát triển. Khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.

+ Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh. Nét nổi bật của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp và lao động làm thuê, nó được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty đối nhân, công ty đối vốn. Tính đến cuối năm 2001 nền kinh tế nước ta có 24.387 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp kinh tế tư bản tư nhân không những đóng góp và huy động ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất, kinh doanh mà còn qua đó giữ vai trò quan trọng trong việc tạo thêm việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống và hoạt động nhân đạo. Với vị thế ấy, Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển rộng rãi kinh tế tư bản tư nhân trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh về chính sách, pháp lý để phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài. Khuyến khích tư bản tư nhân chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động. Đẩy mạnh liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế khác.

+ Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong nước cũng như nước ngoài, nhằm khai thác các nguồn lực cho phát triển và đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm từ sự can thiệp thông minh của Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản. Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, kinh tế tư bản nhà nước thực sự là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn, là “nhịp cầu trung gian” đi lên xã hội chủ nghĩa. Nó có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản, vì lợi ích của bản thân họ cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước ta. Do đó, Đảng ta chủ trương phát triển đa dạng các hình thức tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước.

+ Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là thành phần kinh tế mới được bổ sung. Sở dĩ như vậy là vì thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm (1991 – 2001) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất bình quân tăng 22%/năm. Trong năm năm (1996 – 2000) vốn đầu tư nước ngoài thực hiện khoảng 10 tỷ USD chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP. Từ thực tiễn đó, Đảng ta chủ trương tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển thuận lợi, hướng mạnh vào khâu xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh doanh và pháp lý để thu hút ngày một nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài.

Nhìn lại gần 20 năm cải cách, chúng ta đã có được nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu tương ứng. Các thành phần kinh tế tồn tại trong cùng một nền kinh tế quốc dân thống nhất, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Để huy động mọi nguồn lực tăng trưởng, trong những năm tới Đảng ta cho rằng cần chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, phát triển mạnh hình thức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông dân.