Phần c triết học Mac-Lenin

c. Thuyết có thể biết (Khả tri luận) và thuyết không thể biết (Bất khả tri luận)

Thuyết có thể biết( khả tri luận)

Thuyết không thể biết( bất khả tri luận

Hoài nghi luận

Khái niệ m

  • Khả tri luận: khẳng định con người có thể hiểu đc bản chất của sự vật, những cái mà con người biết về nguyên tắc là phù hợp với chính sự vật ( ta tin theo khả tri luận )

-Bất khả tri luận: con người không thể hiểu đc bản chất thực sự của đối tượng; các hiểu biết của con người về tính chất, đặc điểm… của đối tượng mà, dù có tính xác thực, cũng không cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng vì nó ko đáng tin cậy

-Đây là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả các nhà duy vật và các nhà duy tâm) trả lời một cách khẳng định: Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.

Ngu ồn gốc

  • Có nhiều suy đoán về nguồn gốc của thuyết Khả tri. Trong đó hiện tại thuyết Khả tri được gọi là thuyết Ngộ đạo.
  • Thuyết ngộ đạo: bắt nguồn từ các milieus Do Thái-Kitô giáo trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai sau Công nguyên. Các hệ thống này tin rằng thế giới vật chất được tạo ra bởi sự xuất hiện của Thần cao nhất, nhốt tia lửa

-Thuyết bất khả tri được đưa ra bởi Thomas Henry Huxley vào năm 1869(1825- 1895), người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume(1711-1976) và Emmanuel Kant (1724-1804). Những người chưa bị thuyết phục, cố tình đưa ra quan điểm tồn tại của Thượng đế cũng như các vấn đề tôn giáo khác. Trong quan điểm của David Hume nói rằng, nếu một tuyên bố xuất phát từ ý tưởng hoặc thực nghiệm, điều đó trở nên vô nghĩa. Vì những kiến thức phát biểu về Thượng đế nằm ngoài thực

  • Thuật ngữ “Thuyết bất khả tri” được đưa ra năm 1869 bởi T. Huxley (Hắcxli) (1825 – 1895), nhà triết học tự nhiên người Anh, người đã khái quát thực chất của lập trường này từ các tư tưởng triết học của D. Hume (Hium) và Kant. Đại biểu điển hình cho những nhà triết học bất khả tri cũng chính là Hume và Kant. -Ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận từ triết học

thức “). nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo Đặc điể m

-Thuyết khả tri khẳng định con người về nguyên tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nóichung ý thức mà con người có được về sự vật về nguyên tắc, là phù hợp với bản thân sự vật. Những người theo Khả tri luận tin tưởng rằng, nhận

  • Không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại được cảm giác của con người.
  • Khẳng định ý thức con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thức tại như nó vốn có.
  • Cho rằng mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới Khẳng định ý thức con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thức tại như nó vốn có. => Không đặt vấn đề về niềm tin, mà

thức là một quá trình không ngừng đi sâu khám phá bản chất sự vật.

là phủ nhận khả năng vô hạn của nhận thức.

Các triết gia tiêu biểu

  • Feuerbach cho rằng con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được giới

tự nhiên. Một người thì không thể

“Tôi không khẳng định cũng không phủ nhận sự bất tử của con người, nhưng tôi cũng không thấy lý do để tin vào điều đó, mặt khác, tôi không có cách nào để bác bỏ nó.” “Hãy cho tôi bằng chứng để tôi tin bất cứ điều gì khác, và tôi sẽ tin vào điều đó. Tại sao tôi không nên tin? Nó chắc chắn cũng tuyệt vời như sự bảo toàn lực

Pyrrhon xứ Élis (365- TCN)

-Thuyếết hoài nghi, được khởi xướng bởi Pyrrhon xứ Elis (360 – 272 TCN), một triết gia cùng thời với Zeno, nhìn chung đã có vai

  • Con người có thể nhận thức được một cách đúng

đần bản chất của mọi sự vật và hiện tượng Không có một ranh giới nào của vật tự nó mà nhận thức không thể vượt qua

chính thống, và bản chất và khuynh hướng của tôi có sự ác cảm lớn nhất có thể đối với tất cả các trường phái vô thần và không chung thủy. Tuy nhiên, tôi biết rằng tôi, mặc dù bản thân tôi, chính xác là những gì một Cơ đốc nhân sẽ gọi, và theo những gì tôi có thể thấy, một cách chính đáng, là một người vô thần và một kẻ vô đạo. ( Thomas Henry Huxley)

điểm lạc quan, và khi thực hiện điều này ông đã trích dẫn dày đặc các tác phẩm của họ, nhờ đó chúng được giữ lại nhiều mà nếu không thì ắt hẵn đã thất truyền

được. (Phriđơrich Ăngghen)

 – Immanuel Kant  công nhận rằng tri thức bắt nguồn từ kinh nghiệm và do đó lý trí của con

người đóng một vai trò quan trọng trong tri thức. Một trong những định đề của ông nói rằng: “Tri thức lấy con người làm trung tâm, không phải