ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen="">
Video cách tính tốc độ gia tăng dân số

cach tinh toc do gia tang dan so 1

Bà Đỗ Thị Hồng, Phó vụ trưởng Vụ Truyền thông giáo dục (Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế) phát biểu tại Hội nghị.

Sáng 30/12, tại TP.Hội An (tỉnh Quảng Nam), Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức Hội nghị cung cấp thông tin cho các nhà báo, cán bộ truyền thông cấp tỉnh về dân số và phát triển.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe các chuyên gia chia sẻ, quán triệt về 03 chuyên đề: Một số nội dung chính của Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030; kỹ năng viết bài, đưa tin các nội dung về dân số và phát triển trong Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030; Kỹ năng truyền thông chuyển đổi hành vi về dân số và phát triển trong Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.

Theo Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1679/QĐ-TTg, ngày 22/11/2019: Mục tiêu tổng quát của Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 là “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng; phân bổ dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”.

Chiến lược Dân số Việt Nam lần này cũng đặt ra 8 mục tiêu cụ thể đến năm 2030. Trong đó, có một số mục tiêu quan trọng như: Duy trì mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con; quy mô dân số 104 triệu người), giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn, thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại, phòng tránh vô sinh và hỗ trợ sinh sản; giảm 2/3 số vị thành niên, thanh niên có thai ngoài ý muốn.

Đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp lý: Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỉ lệ người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỉ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%.

Nâng cao chất lượng dân số với tỉ lệ cặp nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm; chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á….

Theo bà Đỗ Thị Hồng, Phó vụ trưởng Vụ Truyền thông giáo dục (Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế), sau 58 năm, với sự vào cuộc và chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương xuống cơ sở cùng với sự phối hợp của các bộ, ban, ngành đoàn thể, các tổ chức quốc tế và các nhà báo, phóng viên, cùng với sự nỗ lực của cả hệ thống làm công tác dân số, công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, hiện nay dân số nước ta là 96,2 triệu người, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế trung bình mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con từ năm 2006, sớm 10 năm so với mục tiêu đề ra và tiếp tục duy trì cho đến nay; cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007; chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt, tuổi thọ trung bình đạt 73,6 tuổi, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người; tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh; tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện; dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; nhận thức về dân số – kế hoạch hóa gia đình của các cấp, các ngành và toàn dân có bước đột phá; mỗi cặp vợ chồng có 2 con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội; dịch vụ dân số – kế hoạch hóa gia đình được mở rộng”- bà Đỗ Thị Hồng cho biết.

Quang cảnh tại Hội nghị

Tuy nhiên, cũng theo bà Hồng, trước yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở hiện tại và tương lai, công tác dân số đặt trong mối quan hệ với kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh với nhiều khó khăn, thách thức như: mức sinh giữa các vùng có chênh lệch khá lớn (TP Hồ Chí Minh là 1,39 con, Hà Tĩnh là 2,83 con), tạo nguy cơ tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng và khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư. Xu thế mức sinh giảm xuống quá thấp đã xuất hiện ở nhiều khu vực. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng (111,5 bé trai/100 bé gái). Lợi thế dân số vàng chưa được tận dụng tốt. Già hóa dân số diễn ra với tốc độ mau lẹ, song các giải pháp thích ứng chưa được triển khai. Chất lượng dân số còn nhiều hạn chế. Quản lý dân cư phân tán, lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội hiện đại./.