Điểm khác biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động?

1. Đối tượng lao động là gì?

Đối tượng lao động là một khái niệm trong kinh tế chính trị Mác – Lênin, là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động là yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm có hai loại là đối tượng lao động có sẵn ví dụ như các loại khoáng sản trong lòng đất, thủy, hải sản ở sông, biển, đất đá ở núi, gỗ trong rừng nguyên thuỷ…và đối tượng lao động đã qua chế biến. Loại này thường là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến.

2. Tư liệu lao động là gì?

Trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động trong đó công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trình độ của công cụ sản xuất là một tiêu chí biểu hiện trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Karl Marx cho rằng “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào“.

3. Điểm khác biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động:

– Trước cuộc cách mạng công nghiệp, 90% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất thực phẩm rất thâm dụng lao động. Sự phát triển công nghệ và tăng trưởng kinh tế đã làm tăng năng suất lao động, giảm cường độ lao động và tạo điều kiện cho người lao động chuyển sang lĩnh vực sản xuất và (gần đây là) dịch vụ.

– Các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các hợp tác xã;

– Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;

– Các cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức phi chính phủ hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam;

– Các gia đình, cá nhân sử dụng lao động ở Việt Nam.

– Trong đó, các quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài (bao gồm cả quan hệ lao động của người nước ngoài làm việc cho các tổ chức, cá nhân được phép sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam) còn có thể là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Nếu có các điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên kí kết hoặc tham gia có quy định khác thì quan hệ lao động này sẽ do các điều ước quốc tế đó điều chỉnh. Nếu không thuộc trường hợp đó thì quan hệ lao động sẽ do luật lao động điều chỉnh.

– Đối với các quan hệ lao động nêu trên, các chủ thể của quan hệ phải tuân theo các quy định của luật lao động trong tất cả các khâu, các giai đoạn của quan hệ đó như: thiết lập quan hệ (giao kết hợp đồng lao động), thực hiện quan hệ (thực hiện, thay đổi, tạm hoãn hợp đồng lao động, phân công, điều hành quá trình làm việc), chấm dứt quan hệ (đơn phương hoặc đương nhiên) và cả việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động ấy. Điều đó có nghĩa là pháp luật lao động tác động tương đối toàn diện đến quan hệ lao động làm công ăn lương thuộc đối tượng điều chỉnh của nó theo những hướng vận hành nhất định, có tính bắt buộc chung.

– Như vậy, luật lao động hiện hành không điều chỉnh các quan hệ khác, mặc dù có yếu tố lao động, rất gần gũi với quan hệ lao động như quan hệ của các xã viên với hợp tác xã, quan hệ dịch vụ, gia công… Thực tế, những quan hệ này không phải là quan hệ lao động, không có yếu tố sử dụng lao động. Điều đó cũng phù hợp với các quy định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay: những quan hệ này đã được Luật hợp tác xã, luật dân sự điều chỉnh.

– Quan hệ lao động của công chức, viên chức với Nhà nước cũng không nằm trong đối tượng điều chỉnh của luật lao động do những đặc thù đã phân tích ở trên. Quan hệ này đã được quy định trong luật hành chính . Các điều luật này đã có sự phân biệt mang tính chủ đạo về đối tượng lao động là viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương. Sự phân định này trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện yêu cầu khách quan của sự phù hợp giữa loại quy phạm pháp luật điều chỉnh và tính chất của quan hệ xã hội được điều chỉnh.

– Tuy nhiên, trên thực tế có những quan hệ thuê mướn thực hiện công việc nhưng không dễ để kết luận ngay rằng ở đó có sự sử dụng sức lao động như quan hệ lao động hay đó chỉ là quan hệ dịch vụ theo hình thức thuê khoán dân sự. Đặc biệt, khi các bên thiết lập quan hệ ngắn hạn theo vụ việc, chỉ thoả thuận về công việc và tiền công. Người lao động được trả công theo hình thức công nhật hoặc công khoán theo sản phẩm thực tế. Họ cũng phải tuân theo những yêu cầu nào đó nhưng công việc thuộc loại đơn giản, yếu tố tổ chức, quản lý lao động không rõ ràng…

– Những quan hệ như vậy rất khó phân biệt nên nếu có tranh chấp, các bên phải tự chứng minh quan hệ của họ có dấu hiệu của quan hệ lao động hay không. Nếu không chứng minh được có sự quản lí của một bên và có sự phục tùng của bên kia trong quá trình làm việc thì quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sẽ được giải quyết theo các quy định của luật dân sự. Nói cách khác, nếu các dấu hiệu của quan hệ lao động không rõ ràng, luật dân sự sẽ được sử dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Tương tự như vậy, trong một vài trường hợp, sự khác nhau của quan hệ lao động hợp đồng và quan hệ lao động của công chức nhà nước cũng rất mỏng manh và mang tính hình thức.

– Đó là trường hợp người lao động vào làm việc tại cơ quan nhà nước theo hình thức hợp đồng lao động với công việc và mức lương thoả thuận. Lúc này, quan hệ lao động của họ do luật lao động điều chỉnh. Sau khi có chỉ tiêu biên chế nhà nước, họ được tuyển dụng vào làm việc theo chế độ công chức nhà nước bằng quyết định hành chính, công việc và mức lương có thể chưa thay đổi; song, quan hệ lao động của họ đã thay đổi cơ bản, đã trở thành quan hệ lao động giữa công chức với Nhà nước, do luật hành chính điều chỉnh.

– Như vậy, có thể khẳng định đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật lao động Việt Nam là quan hệ lao động làm công ăn lương – quan hệ lao động phát sinh trên cơ sở hợp đồng lao động, giữa người lao động làm công và người sử dụng lao động. Điều đó phù hợp với xu hướng chung trên bình diện quốc tế và đảm bảo tính hài hoà trong hệ thống pháp luật hiện hành. Ngoài ra, các văn bản là nguồn chủ yếu của luật lao động cũng có thể được áp dụng với một số quan hệ phù hợp khác đồng thời là nguồn của các ngành luật đó.

* Thứ hai, về tư liệu lao động: Tư liệu lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, cùng với sức lao động của con người , và đối tượng lao động (tư liệu làm việc).

– Tư liệu lao động và chủ thể lao động làm tổn hại đến tư liệu sản xuất của xã hội.

– Trong một số công thức, phương tiện lao động và sức lao động của con người (bao gồm bản thân hoạt động, cũng như các kỹ năng và kiến thức mang lại cho quá trình sản xuất) bao gồm các lực lượng sản xuất của xã hội , các công thức khác xác định lực lượng sản xuất nhiều hơn trong phạm vi hẹp là sự kết hợp giữa các công cụ sản xuất và những người lao động sử dụng chúng.

– Nhìn chung, các nền kinh tế kém phát triển có xu hướng sử dụng nhiều lao động hơn. Tình trạng này khá phổ biến vì thu nhập thấp có nghĩa là nền kinh tế hoặc doanh nghiệp không có khả năng đầu tư vào vốn đắt đỏ. Nhưng với thu nhập thấp và lương thấp, một doanh nghiệp có thể duy trì khả năng cạnh tranh bằng cách sử dụng nhiều lao động. Bằng cách này, các doanh nghiệp trở nên ít thâm dụng lao động hơn và thâm dụng vốn nhiều hơn.