Với ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược, Quân và dân nhà Trần đã làm nên những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Thắng lợi đó là minh chứng hùng hồn, khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của vương triều Trần cùng tinh thần tự lực, tự cường, ý chí cố kết cộng đồng và quyết tâm bảo vệ non sông, bờ cõi của quân, dân Đại Việt.
Sau khi chinh phục được nhiều quốc gia và xây dựng nên một đế chế hùng mạnh từ bờ Đông biển Hắc Hải đến bờ Tây Thái Bình Dương, quân Mông Cổ tiếp tục tấn công hòng chinh phục Nam Tống và đánh chiếm các nước ở khu vực Đông Á, Đông Nam Á. Để thực hiện mưu đồ này, Đại hãn Mông Cổ cho quân đánh chiếm Đại Việt làm bàn đạp tiến công Nam Tống và tiến hành “kế ở lâu dài” phát triển xuống khu vực Đông Nam châu Á. Tháng 01 năm 1258, khoảng bốn vạn quân Mông Cổ do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến hành xâm lược Đại Việt, tuy nhiên đội quân này đã bị quân và dân nhà Trần đánh bại. Sau cuộc tiến công lần đầu không thành, năm 1285, quân Mông – Nguyên tiến hành đánh chiếm nước ta lần thứ hai với quy mô lớn nhất (khoảng 60 vạn quân), mức độ ác liệt hơn, song vẫn không giành được thắng lợi. Không chấp nhận thất bại, năm 1288, quân Mông – Nguyên tiếp tục tiến công xâm lược lần thứ ba với mục đích rửa “nỗi nhục” tại đất nước nhỏ bé này và một lần nữa chúng lại phải cúi đầu khuất phục trước quân, dân Đại Việt.
Về phía Đại Việt, sau khi nắm quyền từ tay nhà Lý, nhà Trần tiếp tục đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, làm nên hào khí Đông A với những chính sách ưu việt, nổi bật là việc chăm lo củng cố triều chính, binh bị, bố phòng đất nước, khoan thư sức dân, v.v. Khi biết tin quân Mông – Nguyên chuẩn bị xâm lược nước ta, vua tôi nhà Trần đã đoàn kết một lòng cùng với nhân dân cả nước khẩn trương làm công tác chuẩn bị để đánh giặc giữ nước. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của vương triều Trần, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh bại quân Mông – Nguyên xâm lược, bảo vệ vững chắc giang sơn, bờ cõi. Có được chiến thắng trước đội quân xâm lược hùng mạnh là do nhiều yếu tố hợp thành; trong đó, yếu tố cơ bản, quan trọng là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức” và sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt, tài tình của Bộ Thống soái Đại Việt, đứng đầu là các vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
1. Tránh đối đầu trực diện quy mô lớn với địch, chủ động rút lui, bảo toàn lực lượng, từng bước đưa chúng vào thế trận chuẩn bị trước, đánh trận quyết định
Xem thêm : Soạn bài Việt Bắc – Ngữ Văn 12
Với quyết tâm bảo vệ vững chắc non sông, bờ cõi, nên khi được tin quân Mông – Nguyên chuẩn bị xâm lược Đại Việt, vua Trần đã xuống chiếu cho cả nước khẩn trương sắm sửa vũ khí, làm công tác chuẩn bị chống giặc; cử Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn thống lĩnh đại quân cùng nhân dân cả nước đánh giặc, giữ nước. Năm 1258, khi quân giặc tiến quân xâm lược nước ta, nhận thấy không thể đối đầu trực diện với đội quân Mông Cổ thiện chiến, quen đánh trận ngay từ đầu, Bộ Thống soái nhà Trần chỉ đạo quân và dân các lộ từng bước chặn giặc, làm giảm nhịp độ tiến công của chúng, đồng thời tổ chức cho quân chủ lực triều đình rút lui, bảo toàn lực lượng và có thời gian bàn phương lược phản công. Cùng với đó, chia quân ra trấn giữ những nơi hiểm yếu, thực hiện các cuộc tấn công nhỏ, lẻ, làm suy yếu quân giặc, khi thời cơ đến tổ chức các cuộc phản công quy mô lớn đánh đuổi quân giặc ra khỏi bờ cõi.
Thực hiện kế sách đó, quân và dân Đại Việt đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu, đích thân vua Trần Thái Tông đi tiên phong, tự mình đốc thúc quân sĩ đánh giặc. Thấy rõ sức mạnh của địch, tướng Lê Phụ Trần đề nghị với nhà vua hãy tạm rút lui để bảo toàn lực lượng, không nên “dốc túi đánh nước cuối cùng”1. Được sự tham mưu của tướng sĩ, nhận thấy chưa thể đánh bại ngay được quân giặc, vua Trần cùng Bộ Thống soái đã tổ chức lui quân từ Bình Lệ Nguyên về Phù Lỗ rồi về Thăng Long. Trước thế tiến công mạnh mẽ của giặc, nhằm bảo toàn lực lượng và có thời gian chuẩn bị phản công, triều đình nhà Trần đã quyết định rút lui khỏi kinh thành. Việc lui quân khỏi Thăng Long đã giúp nhà Trần bảo toàn gần như nguyên vẹn quân triều đình và giành thắng lợi quyết định trong cuộc phản công tại Đông Bộ Đầu (Hà Nội ngày nay) vào ngày 20/01/1258.
Cũng như cuộc kháng chiến lần thứ nhất, năm 1285, khi 60 vạn quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta, nhờ chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến chu đáo, động viên tinh thần tướng sĩ kịp thời, cùng với đánh giá chính xác tình hình quân giặc, Bộ Thống soái nhà Trần, đặc biệt là Trần Quốc Tuấn đã thay đổi ý định tác chiến, tránh quyết chiến chiến lược trong điều kiện bất lợi, từng bước ngăn chặn giặc, chủ động rút lui khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng. Quá trình lui quân ra Quảng Yên, rồi vào Thanh Hóa, nhà Trần từng bước củng cố, bổ sung lực lượng, nên thế và lực quân ta lại mạnh thêm. Cùng với đó, chỉ đạo quân các lộ, quân vương hầu từng bước nhử giặc vào thế trận đã chuẩn bị sẵn, làm cho quân giặc muốn đánh nhanh, giao chiến với quân triều đình cũng không được. Trong khi quân chủ lực nhà Trần vẫn chưa phải giao chiến lớn, sức mạnh vẫn bảo toàn thì quân giặc ngày càng mệt mỏi, hoang mang do phải dàn mỏng lực lượng từ Lạng Sơn đến Thăng Long để đối phó với các cuộc tiến công nhỏ, lẻ của ta2. Khi thời cơ chín muồi, Bộ Thống soái nhà Trần chỉ đạo quân và dân ta thực hiện những trận phản công chiến lược tại Tây Kết, Hàm Tử Quan, Chương Dương Độ, Thăng Long, Vạn Kiếp tiêu diệt lớn quân giặc, đánh bại cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn nhất của địch, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai.
Trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ ba (năm 1288), cũng như hai lần trước, mặc dù quân giặc thay đổi thủ đoạn xâm lược, nhưng nhờ nắm chắc mưu đồ của chúng, Bộ Thống soái nhà Trần đã không bố trí quân triều đình tại khu vực biên giới, mà tập trung tại những nơi dự kiến sẽ diễn ra trận quyết chiến chiến lược. Ở những khu vực hiểm yếu mà quân giặc sẽ đi qua, vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng bố trí lực lượng vừa phải chặn đánh, làm giảm tốc độ tiến công của chúng và có thể rút lui an toàn. Theo đó, dưới sự chỉ đạo của Bộ Thống soái nhà Trần, quân và dân ta đã tập trung xây dựng thế trận bí mật, hiểm hóc, có thế đánh, thế lui tại Bạch Đằng Giang và từng bước lừa dụ quân giặc vào để đánh trận quyết định, qua đó kết thúc vang dội cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ ba. Có thể thấy, việc quân và dân nhà Trần tránh đối đầu trực tiếp quy mô lớn với quân Mông – Nguyên khi chúng đang mạnh, thực hiện việc lui quân chiến lược để bảo toàn lực lượng, chờ quân giặc mệt mỏi, suy yếu rồi mới phản công là để “tránh cái thế hăng hái ban mai của giặc” và “sức dùng một nửa, công được gấp đôi”.
2. Triệt để tiến hành kế “thanh dã”, cắt đứt đường tiếp tế lương thảo của giặc
Xem thêm : Giải đáp: có nên cắt tóc máu cho trẻ sơ sinh hay không?
Đi đôi việc thực hiện các cuộc rút lui chiến lược, tránh đối đầu quy mô lớn nhằm bảo toàn quân chủ lực, Bộ Thống soái nhà Trần còn thực hiện có hiệu quả kế “thanh dã” và chặn đánh đoàn thuyền tải lương, cắt nguồn tiếp tế, cung cấp lương thảo khiến chúng rơi vào cảnh thiếu thốn, đói khát; quân tướng hoang mang, lo sợ, giảm sút ý chí chiến đấu. Trước nguy cơ đói khát, dịch bệnh hoành hành, quân giặc đã chia quân thành tốp nhỏ, đánh ra các hương, ấp xung quanh kinh thành để cướp lương thảo. Dưới sự chỉ đạo của vương triều nhà Trần, nhân dân các hương, ấp đã cất giấu lương thực, vũ khí, tiến hành những trận phục kích, tập kích nhỏ vào đội hình quân giặc. Liên tục bị quân và dân nhà Trần tiến công, cộng thêm khó khăn về lương thảo, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, tướng sĩ Mông Cổ hoang mang, lo sợ, giảm sút nhuệ khí chiến đấu, đó chính là cơ hội để quân và dân nhà Trần thực hiện trận phản công chiến lược tại Đông Bộ Đầu giành thắng lợi. Năm 1285, mặc dù đã có sự chuẩn bị chu đáo về lương thảo, nhưng khi chiếm được Thăng Long và các khu vực lân cận, chúng vẫn gặp không ít khó khăn về hậu cần và cũng không thể kiểm soát được nơi đã chiếm. Bởi, các đội quân của triều đình có nhiệm vụ ở lại đã cùng với quân các lộ, dân binh các hương, ấp thực hiện có hiệu quả kế “thanh dã” – “vườn không, nhà trống” và tiến hành kháng chiến lâu dài theo kế hoạch của triều đình. Ngoài ra còn thường xuyên tổ chức các đợt tấn công vào đội hình quân giặc nhất là đội quân đi cướp lương thảo trong dân. Những hoạt động đó của quân và dân ta đã khiến việc bảo đảm lương thảo của giặc gặp rất nhiều khó khăn, đường vận chuyển, tiếp tế bị cắt đứt, đẩy chúng rơi vào cảnh thiếu lương thực, thực phẩm; khu vực đóng quân bị quấy rối, đe dọa, lực lượng tiêu hao, tinh thần hoảng loạn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ ba, chỉ bằng một trận đánh tại Vân Đồn – Cửa Lục, quân và dân ta đã tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền tải lương của giặc, làm cho kế hoạch xâm lược của chúng gặp muôn vàn khó khăn, lương thảo không đủ để cung cấp, sức chiến đấu bị giảm sút. Việc chỉ đạo thực hiện có hiệu quả kế “thanh dã” – cắt đứt nguồn lương thảo tại chỗ, đánh phá, chặn cắt nguồn tiếp tế, cung cấp lương thảo giữa tuyến trước và tuyến sau của giặc khẳng định sự chỉ đạo tài tình, sáng suốt, độc đáo của Bộ Thống soái nhà Trần.
Như vậy, trong cả ba cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, nhờ nắm chắc tình hình, đánh giá đúng điểm mạnh, điểm yếu, sở trường, sở đoản của giặc, Bộ Thống soái nhà Trần đã có những chỉ đạo chiến lược: thực hiện các cuộc rút lui nhằm bảo toàn lực lượng; kéo dài thời gian kháng chiến để chuẩn bị phản công; tiến hành triệt để kế “thanh dã”, cắt đứt nguồn cung cấp, tiếp tế lương thảo của giặc, qua đó, làm cho chúng rơi vào tình cảnh khốn đốn, tinh thần hoang mang, ý chí chiến đấu giảm sút và không thực hiện được ý định đánh nhanh, thắng nhanh. Sự chỉ đạo chiến lược của triều đình nhà Trần là nhất quán, xuyên suốt trong ba cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên và là sách lược duy nhất đúng trong cuộc đối đầu với đội quân hùng mạnh, thiện chiến, quen trận mạc. Sự chỉ đạo chiến lược đó khẳng định tầm nhìn, tư duy sáng tạo, khả năng tổ chức của Bộ Thống soái Đại Việt, đứng đầu là các vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, đồng thời là bài học quý cần vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
HÀ THÀNH ________
1 – Đại Việt Sử ký toàn thư, Tập II, Nxb KHXH, H. 1998, tr. 28.
2 – Cứ 30 dặm chúng lập một trại, 60 dặm dựng một trạm ngựa. Mỗi trại, trạm có 300 quân đóng giữ.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp