Bản chất của cuộc khủng hoảng diễn ra trong giai đoạn 1929 – 1933 là vì các nước tư bản cố gắng đuổi theo lợi nhuận, sản xuất quá nhiều và dồn dập, nhưng sức mua của người dân không thể đáp ứng được vì họ quá nghèo.
Tại Việt Nam, thực dân tăng cường bóc lột nhân dân, chèn ép tài chính của nước ta kiệt quệ, đồng bào ta bị cướp bóc, bị áp sưu thuế cao, vô cùng khốn khổ. Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, nhiều nước đã thiết lập những chính sách để khôi phục nền kinh tế, nổi bật nhất là “Chính sách mới của Mỹ” và “Sự phân chia thuộc địa”.
Bạn đang xem: Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 và những ảnh hưởng tới thị trường Việt Nam
1. Tổng quan cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 là cuộc đại suy thoái kinh tế bắt nguồn từ Mỹ sau đó lan rộng ra các quốc gia khác, kéo theo nhiều tác động vô cùng tiêu cực cho toàn thế giới.
Tháng 09.1929, cuộc khủng hoảng bùng nổ ở Mỹ, nước Mỹ đã lao vào chạy đua sản xuất ồ ạt nhiều mặt hàng nhưng không thể tiêu thụ được, ế tràn lan.
Sản lượng công nghiệp sụt giảm 50%, trong đó, gang thép giảm 75%, ô tô giảm gần như tuyệt đối 90%, các xí nghiệp lớn thi nhau phá sản, nông dân thất thu, cuộc sống khốn khổ nghèo đói. Vào thời điểm lúc bấy giờ, cuộc khủng hoảng này có sức tàn phá vô cùng nặng nề, khiến cho nền kinh tế Mỹ lâm vào kiệt quệ, tỉ lệ thất nghiệp cao chóng mặt.
Các nước tư bản khác cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chẳng hạn như nước Anh, vào năm 1931, sản lượng gang giảm 50%, thép cũng ở tình trạng tương tự, giảm 50%, thương nghiệp giảm 60%.
Tại Pháp, khủng hoảng kéo dài từ năm 1930 – 1936, thu nhập quốc dân chỉ còn 70%, công nghiệp cũng còn 70% và nông nghiệp giảm 40%. Ở Đức, tính đến năm 1930, sản lượng công nghiệp chỉ còn 23%, một con số vô cùng kinh khủng.
Thông tin về cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933
Bản chất của cuộc khủng hoảng là vì các nước tư bản cố gắng đuổi theo lợi nhuận, sản xuất quá nhiều và dồn dập, nhưng sức mua của người dân không thể đáp ứng được vì họ quá nghèo. Tư bản chọn cách tiêu hủy hàng chứ không giảm giá, đánh sưu thuế cao để bù lỗ, càng khiến người người lầm than, oán thán.
Tình cảnh này khiến cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản, tầng lớp địa chủ và nông dân càng trở nên gay gắt. Cao trào là các cuộc cách mạng và bạo loạn xảy ra ở khắp nơi trên toàn thế giới. Nội bộ trong nước lục đục nhau, bên ngoài các đế quốc ra sức tranh giành tài nguyên, tài sản và đất đai, với âm mưu chia lại thế giới, cũng chính là “châm ngòi” cho Thế chiến thứ 2.
2. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933
Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc sản xuất của chủ nghĩa tư bản tăng lên quá nhanh, quá nhiều, nhưng nhu cầu và sức tiêu thụ của người dân không tăng theo tương ứng. Ngoài ra, lợi nhuận của các công ti, xí nghiệp cũng tăng, trong khi, người lao động không nhận được mức lương xứng đáng, khiến họ không đủ khả
năng mua chính hàng hóa mà họ sản xuất. Cho nên, hàng hóa thừa thãi, dẫn tới suy thoái trong sản xuất. Vì vậy, cuộc khủng hoảng này còn được biết đến với cái tên “khủng hoảng thừa”.
Lý do tiếp theo đến từ chính những món nợ của Chính phủ và chính sách thuế khiến cho hàng hóa ứ đọng, không thể xuất khẩu ra nước ngoài. Lạm dụng tín dụng, đầu cơ chứng khoán quá nhiều… cũng là những nguyên nhân đẩy chính phủ và tư bản rơi vào tình trạng nợ nần.
Tìm hiểu nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khủng hoảng 1929 – 1933
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh cơ giới hóa vô tình làm giảm nhu cầu việc làm của thợ không lành nghề, từ đó tình trạng thất nghiệp gia tăng mạnh mẽ. Đi kèm việc Chính phủ không đưa ra được những biện pháp đúng đắn để khắc phục thất nghiệp cũng như giảm nghèo đói, cho nên tình trạng càng lâm vào khốn cảnh.
3. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 tới thị trường Việt Nam
Tác động của cuộc khủng hoảng tới thị trường Việt Nam
Tác động của cuộc “khủng hoảng thừa” năm 1929 – 1933 là vô cùng nghiêm trọng, rất nhiều quốc gia trở nên tiêu điều, các cuộc đàn áp và bạo loạn nổ ra vô cùng khốc liệt.
Tại Việt Nam, thực dân tăng cường bóc lột nhân dân, chèn ép tài chính của nước ta kiệt quệ, đồng bào ta bị cướp bóc, bị áp sưu thuế cao, vô cùng khốn khổ. Một phần nữa, do tại Pháp khủng hoảng cũng diễn biến phức tạp, nên chúng rút vốn đầu tư từ Đông Dương vè chính quốc làm kinh tế Việt Nam cũng trở nên trì trệ, cụ thể là:
– Thiếu nguồn vốn trầm trọng khiến sản xuất công nghiệp đình trệ;
– Lúa gạo mất giá không thể xuất khẩu, ruộng đất bỏ hoang, dân thiếu cái ăn;
– Công nhân thất nghiệp tràn lan, lương giảm từ 30 – 50%;
– Viên chức bị sa thải, nhà buôn nhỏ phải đóng cửa, sinh viên ra trường không có việc làm;
– Tư bản dân tộc cũng lâm vào thế khó khăn, không thể kinh doanh thương mại và sản xuất, phá sản trên quy mô lớn;
– Nông dân bị bần cùng hóa, khó khăn khốn cùng, khiến các phong trào cách mạng phát động và bùng nổ ở nhiều nơi trên cả nước.
4. Chính sách phục hồi sau khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 của các nước
Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, nhiều nước đã thiết lập những chính sách để khôi phục nền kinh tế, nổi bật nhất là “Chính sách mới của Mỹ” và “Sự phân chia thuộc địa”.
Xem thêm : Ca Dao Tục Ngữ Về Tự Lập [132+ Thành Ngữ Hay Nhất]
Thứ nhất, Chính sách mới của Mỹ:
Chính sách này gắn liền với tổng thống Franklin Delano Roosevelt – vị tổng thống thứ 32 của Mỹ. Các chiến lược về công nông nghiệp, tài chính ngân hàng, an sinh xã hội mà ông cho thực hiện đã kéo nước Mỹ thoát khỏi đám bùn lầy.
Về công thương nghiệp, Ban Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRB) đã được thành lập nhằm giám sát các giao dịch tập thể, áp dụng Luật Quan hệ Lao động Quốc gia. Các cuộc bầu cử giờ đây đã có đơn vị điều hành, đảm bảo cho công nhân có quyền lựa chọn tổ chức đại diện cho họ trong việc thương lượng với chủ sử dụng lao động.
Nhờ vậy, sản lượng tăng cao hơn trong giai đoạn 1935 – 1940, tâm lý người lao động thoải mái hơn vì giờ đây, họ có nhiều hơn quyền “được làm việc”.
Các chính sách phục hồi kinh tế sau khủng hoảng
Về nông nghiệp, thực hiện chính sách cắt bỏ sản lượng nông nghiệp, giá nông sản từ đó tăng lên, nông dân được đền bù do cắt giảm sản lượng từ các công ty tín dụng nông sản.
Về tài chính ngân hàng, các ngân hàng quốc gia không có khả năng trả nợ bị buộc đóng cửa, cho phép lạm phát vừa phải để giá trị hàng hóa được nâng cao, giảm bớt gánh nặng nợ. Nhờ sự bảo trợ của các liên bang nên thị trường chứng khoán hoạt động sôi động trở lại.
Về an sinh xã hội, họ chia người thất nghiệp thành nhiều nhóm để phát triển các dự án của Chính phủ. Tình trạng thất nghiệp được cải thiện, người dân được trả lương trợ cấp và chi phí thất nghiệp.
Thứ hai, Sự phân chia thuộc địa:
Một số nước tư bản và nước ít thuộc địa lựa chọn chiến lược phân chia lại thuộc địa, phát hành chính sách Phát xít để xâm chiếm thuộc địa của nhau. Đây được xem là cuộc chiến tranh tàn bạo nhất lịch sử nhân loại trong nỗ lực phân chia lại bản đồ thế giới. Các quốc gia có truyền thống quân phiệt hiếu chiến như Đức, Ý, Nhật Bản là những nước đã phát động cuộc chiến này.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 với sự tham gia của trên 30 nước, gây ra cái chết cho 85 triệu dân toàn cầu, bắt đầu từ cuộc xâm lược Ba Lan của Phát xít Đức, và kết thúc bằng các phong trào chống thực dân thành công.
Trên đây là những diễn biến và hậu quả của cuộc đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 1929 – 1933. Để biết thêm nhiều thông tin liên quan về đầu tư, kinh tế – tài chính, bạn hãy truy cập vào TOPI nhé.
Tìm hiểu thêm: Khủng hoảng kinh tế 2008 và những tác động của nó tới thị trường Việt Nam
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp