Quy định về dấu hiệu vi phạm pháp luật

Quy định về dấu hiệu vi phạm pháp luật

Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, mang tính lỗi của các chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí, gây ra sự xâm hại đối với các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Có những dấu hiệu cơ bản như sau:

Mang tính nguy hiểm cho xã hội:

Vi phạm pháp luật, trước hết, phải là hành vi của con người hoặc hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội (các chủ thể pháp luật), đều có khả năng gây nguy hiểm hoặc có tiềm ẩn nguy hiểm cho xã hội. Việc xác định một vi phạm pháp luật không thể thiếu việc đánh giá hành vi có mức độ nguy hiểm cho xã hội. Điều này có thể thể hiện dưới nhiều hình thức, bao gồm hành động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật không can thiệp vào những suy nghĩ, cảm xúc hoặc các đặc tính cá nhân khác của con người, miễn là chúng không gây ra nguy hiểm cho xã hội.

Vi phạm pháp luật xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ

Vi phạm pháp luật không chỉ đơn thuần là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn phải trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Do đó, không phải tất cả các hành vi hợp pháp hoặc trái với các quy định của tổ chức xã hội, tập quán, đạo đức, và các tín điều tôn giáo mà không trái pháp luật đều được coi là vi phạm pháp luật. Tính trái pháp luật là một đặc tính không thể thiếu của vi phạm pháp luật.

Có lỗi của chủ thể

Dấu hiệu trái pháp luật chỉ là một phần của vi phạm pháp luật. Để xác định một hành vi vi phạm pháp luật, cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, trong đó yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi là quan trọng. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện hoàn cảnh khách quan, chủ thể thực hiện không cố ý và cũng không vô ý thực hiện, hoặc không nhận thức hành vi của mình, thì chủ thể đó không bị xem là có lỗi và hành vi đó không bị xem là vi phạm pháp luật. Như vậy, có thể kết luận rằng, không phải mọi hành vi trái pháp luật đều là hành vi vi phạm pháp luật.

Quy định về dấu hiệu vi phạm pháp luật
Quy định về dấu hiệu vi phạm pháp luật

Chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý

Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể theo quy định của nhà nước. Thông thường, nhà nước chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp lý đối với những người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và tự do ý chí. Đối với trẻ em ít tuổi chưa nhận thức và điều chỉnh được hành vi của mình do chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực và tâm sinh lý, thì nhà nước không bắt buộc chúng phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của họ. Độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý được quy định khác nhau trong các lĩnh vực và quan hệ xã hội. Đối với những người mất năng lực nhận thức hoặc khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện hành vi, họ cũng không có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.

Những dấu hiệu cấu thành vi phạm hành chính

Tùy theo từng trường hợp mà hành vi vi phạm hành chính sẽ biểu hiện khác nhau, tuy nhiên, nhìn chung, các hành vi này đều có các dấu hiệu và yếu tố cấu thành, bao gồm:

Mặt khách quan của vi phạm hành chính

Mặt khách quan đề cập đến những biểu hiện bên ngoài, bao gồm: hành vi vi phạm hành chính, hậu quả của hành vi vi phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả, công cụ, phương tiện, địa điểm, thời gian thực hiện vi phạm.

Trong đó, dấu hiệu bắt buộc nhất trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm. Nói một cách đơn giản, hành vi mà tổ chức hoặc cá nhân thực hiện là hành vi vi phạm, xâm phạm đến nguyên tắc quản lý của nhà nước, đã được pháp luật cấm trái lại thông qua văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt hành chính.

Mặt chủ quan của vi phạm hành chính

Mặt chủ quan của vi phạm hành chính đề cập đến các yếu tố tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích thực hiện hành vi vi phạm.

Trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính, yếu tố lỗi của chủ thể là bắt buộc. Lỗi là trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả xấu của hành vi của mình (biết trước được hậu quả xấu mà vẫn thực hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức) tại thời điểm chủ thể thực hiện hành vi vi phạm.

Mặt khách thể của vi phạm hành chính

Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật. Đây là một trong những tiêu chí để phân loại hành vi vi phạm hành chính.

Mặt chủ thể của vi phạm hành chính

Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính, đã thực hiện hành vi trái pháp luật theo quy định của pháp luật hành chính. Mỗi loại vi phạm hành chính sẽ có chủ thể riêng tùy thuộc vào mức độ xâm hại và các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

Chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức có hành vi vi phạm hành chính. Cá nhân từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm hành chính do lỗi cố ý. Còn cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ bị xử phạt hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính mà họ gây ra.

Mời bạn xem thêm:

  • Cách chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật
  • Quy định ban hành văn bản pháp luật
  • Tìm hiểu về các loại vi phạm pháp luật

Câu hỏi thường gặp: