Triết học cuối kỳ – triwwts học cuối kì

TRIẾT HỌC

1/ Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta căn cứ vào: Quan hệ giữa vật

chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào.

*Chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật chất( tồn tại, tự nhiên) có trước, ý thức( tư duy, tinh thần) có

sau, vật chất quyết định ý thức.

-Nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với với lợi

ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.

-Thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và

chủ nghĩa duy vật biện chứng.( Trang 17)

  • Chủ nghĩa duy vật chất phác ( TK 5 SCN trở về TCN)

 Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại  Đặc điểm: Đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của nó ( đất, nước, lửa, không khí,…), coi đó là điểm xuát phát của thế giới.  Lấy chính bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến Thần linh hay Thượng đế.

  • Chủ nghĩa duy vật siêu hình (TK XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ thứ XIX).

 Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của cơ học, có ảnh hưởng lớn đến quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này. Do đó, các nhà triết học thời kỳ này nhìn nhận sự vận động của thế giới một cách cứng nhắc.  Chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại, không vận động, không phát triển.  Góp phần chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo

  • Chủ nghĩa duy vật biện chứng ( do Các và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế

kỷ XIX, sau đó được V.Iênin và những người mácxít kế tục, bảo vệ và phát triển)

 Kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó + sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời.  Đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác, siêu hình  Là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.  Phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại và là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy

*Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức( tư duy, tinh thần) là cái có trước, vật chất có sau, ý thức

quyết định vật chất.

-Nó có nguồn gốc từ nhận thức và nguồn gốc xã hội,thường gắn liền với lợi ích các giai cấp tầng lớp áp bức bóc lột nhân dân lao động. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thường có mối quan hệ mật

thiết với nhau.

-Chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

  • Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người + phủ nhận sự tồn

tại khách quan của hiện thực => khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm

giác (tư tưởng, siêu nhiên vào chúa, thượng đế,…)

  • Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đấy là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người (như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, tư

duy con người, lý tính thế giới, …)

+Tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan

điểm của mình. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa duy

tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo.

Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý

trí. -Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến

diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang

tính biện chứng của con người.

-Chủ nghĩa duy tâm ra đời còn do nguồn gốc xã hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động

chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã

tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Các giai cấp thống trị và những lực lượng xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan

điểm chính trị – xã hội của mình.

2/ Nguồn gốc động lực của sự vận động và phát triển( trang 119) Nguồn gốc: Mỗi sự vật đều có chứa bên trong nó những mặt đối lập và những mặt đối lập đó tạo nên mâu thuân, khi có mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập thì phải tiến hành giải quyết mâu thuẫn – giải quyết mâu thuân xong thì các hiện tượng, sự vật mới ra đời vì vậy mà mâu thuẫn chính là nguồn gốc của vận động, phát triển các SV – HT

  1. Khái niệm mâu thuẫn? Mặt đối lập của mâu thuẫn? Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
  • Triết học Maclenin: Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. a. Mặt đối lập của mâu thuẫn. Đó là những khuynh hướng, tính chất, đặc điểm..à trong đó quá trình vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng, chúng phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau. VD: – Đồng hóa – Dị hóa
  • Chăm học – lười học b. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau, làm tiến đề tồn tại cho nhauết học gọi đó là thống nhất giữa các mặt đối lập. c. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Hai mặt đối lập cùng tồn tại bên nhau, vận động và phát triển theo chiều hướng trái ngược hau. Chúng luôn tác động, bài trừ, gạt bỏ nhau. Triết học gọi đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
  1. Mâu thuẫn là nguồn gốc vân động, phát triển của sự vật và hiện tượng a. Giải quyết mâu thuẫn

hội, ổn định xã hội và tránh chiến tranh… gần như có nghĩa tuyệt đối. Nghĩa là không thể phủ nhận đó là những động lực thực sự của sự phát triển xã hội, có ý nghĩa tích cực cả trước mắt và lâu dài đối với tiến bộ xã hội.

Câu 1: Vật chất tồn tại khách quan hay chủ quan. Vì sao? ( Trang 66) Vật chất tồn tại khách quan. Theo quan điểm V.Iênin, khách quan không phải theo ý nghĩa là

một xã hội những sinh vật ý thức, những con người, có thể tồn tại và phát triển không phụ thuộc

vào sự tồn tại của những sinh vật có ý thức mà khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không

phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người. Đặc tính của vật chất là tồn tại với tư cách là hiện

thực khách quan, tồn tại bên ngoài ý thức chúng ta, không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại

ấy đã được con người nhận thức hay chưa nên vật chất tồn tại khách quan

Câu 2: Hiểu thế nào về: Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan? ( Trang 82)

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức chỉ là “hình ảnh”` về hiện thực khách quan trong óc con người. Đối với con người, ý thức là hiện thực, nhưng là hiện thực trong tư tưởng. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải sự vật, mà chỉ là “ hình ảnh” của sự vật trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm tính đối lập với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính thứ nhất còn. Ý thức là bản sao, là hình ảnh về thế giới, đó là tính thứ hai. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài “ di chuyển” vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong đó. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Ý thức mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn.

Câu 3: Thế nào là nội dung và hình thức phù hợp với nhau? Cho ví dụ trong tục ngữ ca dao để minh họa ( Trang 109)

  • Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.

  • Hình thức là cách tổ chức, kết cấu của nội dung, là mối liên hệ ổn định giữa các mặt, các yếu tố, bộ phận tạo thành nội dung.

Hình thức có hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong quan trọng hơn hình thức bên ngoài.

  • Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Không có nội dung nào lại không có một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào lại không chứa đựng một nội dung nhất định.

  • Nội dung quyết định hình thức. Bởi vì, mối liên hệ giữa những mặt, những yếu tố, những bộ phận thì do chính những mặt, những yếu tố, bộ phận đó quyết định.

Hình thức phải phù hợp với nội dung. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa hình thức với nội dung không cứng nhắc. Cùng một nội dung nhưng trong những điều kiện tồn tại khác nhau có thể có nhiều hình thức khác nhau.

  • Hình thức có tác động trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ tạo điều kiện cho nội dung phát triển. Ngược lại, nếu hình thức không phù hợp với nội dung sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.

Nếu còn thời gian thì làm thêm ý nghĩa của phương pháp luận

Ví dụ: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Trông mặt đặt tên, Người làm sao chiêm bao làm vậy

Ví dụ: sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Câu 4: Trong xã hội khi diễn ra mâu thuẫn đối kháng, cách thức giải quyết mâu thuận như thế nào? Vì sao? ( trang 122)

Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội,..ó lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bốc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Mâu thuẫn đối kháng chỉ có thể giải quyết bằng bạo lực cách mạng, lật đổ sự thống trị của giai cấp bóc lột. Trong điều kiện giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã nắm trong tay chính quyền nhà nước, những mâu thuẫn đối kháng có thể giải quyết bằng con đường hòa bình. Tức là, giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ bởi giải quyết mâu thuẫn không phụ thuộc vào điều kiện đã đủ chín mùi hay chưa.

4’. Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội có lợi ích cơ bản nhất trí với nhau, chỉ đối lập ở những lợi ích không cơ bản. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân nên chỉ có thể giải quyết bằng con đường không bạo lực: bằng cạnh tranh lành mạnh; bằng giáo dục, thuyết phục; bằng đấu tranh phê bình, tự phê bình, v..

Câu 5: Tại sao kiến trúc thượng tầng lại ra sức bảo vệ để lấy cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó? Cho ví dụ minh họa (Trang 150) Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v… cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội … hình thành trên một cơ sở xã hội nhất định. Kiến trúc thượng tầng ra sức bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó vì tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội. KTTT bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó chính là chức năng xã hội của KTTT. Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau, diễn ra theo hai hướng: Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Còn ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kimg hãm sự phát triển của xã hội. Nhưng sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với yêu cầu của cơ sở hạ tầng.

  • Vật chất là cái khách quan, tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức hay chưa.
  • Khi khẳng định như vậy, Lênin đã thừa nhận: Trong thế giới hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức). Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật chất chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…). Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước -Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống nhất. (vật chất trong TN, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan). -Có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phê phán thế giới quan duy tâm vật lý học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng hoảng thế giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, khám phá ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng làm phong phú tri thức của con người về thế giới.
  • Đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.

Câu 4: Trong đời sống xh, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện như thế nào? Vì Sao? Cho ví dụ. ( Tr90) – Trong đời sống xã hội vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức đc biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống VC đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn cũng thay đổi theo – Bởi vì, trong tồn tại xã hội, ý thức chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội sớm muộn cũng phải thay đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Ý thức xã hội không tồn tại tự nó, nó chỉ có thể hình thành và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. – Ví dụ: Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt động của con người vì nhân tố vật chất qui định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó qui định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ thể hoá mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có. ( hổng chắc)

Câu 5: Bộ phận nào quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất? Vì sao? Lực lượng sản xuất là sự kết hợp của người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Người lao động là bộ phận quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Người lao động là con người có trí thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Suy cho cùng, người lao động chế tạo ra tư liệu sản xuất, đồng thời là người sử dụng, phát huy vai trò của tư liệu sản xuất. Các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của con người. Trong quá trình sản xuất, nếu công cụ lao động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thì người lao động do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất

Câu 6: Giữa chất và lượng, yếu tố nào thường xuyên biến đổi? Vì sao? Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật hiện tượng khác, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với lượng mới, nhưng lượng mới lại biến đổi và phá vỡ chất đang kìm hãm nó. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại biến đổi dần để chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. Cứ căn cứthế, quá trình động biện chứng giữa chất và lượng tạo nên cách thức vận động, phát triển của sự vật

Câu 7: Những cơ sở nào để khẳng định ý thức xã hội có khả năng vượt trước tồn tại xã hội? Cho ví dụ minh họa Nhiều tư tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa, nó có vai trò dẫn đường, định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người, nó tác động tích cực đối với tồn tại xã hội. Sợ dĩ, ý thức xã hội có khả năng đó là do đó phản ánh đúng được mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội, do dựa trên cơ sở khoa học, những quan điểm tiến bộ có thể dự báo được khuynh hướng vận động, phát triển của xã hội. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn sau một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của Các đã trở thành sự thực trong thời đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định điều đó.

Ví dụ, thuộc tính chung là trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa của cả một quốc gia, dân tộc, của thủ đô chỉ tồn tại thông qua từng thủ đô cụ thể như Hà Nội, Mátxcơva, Viên Chăn, Phnôm Pênh… Ví dụ: Cùi dày, nhiều múi, rất nhiều tép là cái chung giữa các quả bưởi. Rõ ràng, cùi, múi, tép ở đây (cái chung) chỉ và phải tồn tại trong một quả bưởi nhất định (cái riêng). Ví dụ, không có con “động vật” chung tồn tại bên cạnh con trâu, con bò, con gà cụ thể. Trong bất cứ con trâu, con bò, con gà riêng lẻ nào cũng đều bao hàm trong nó thuộc tính chung của động vật, đó là quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường. Không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào… nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ,và được phản ánh trong khái niệm “cây”. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, vì bất cứ cái riêng nào cũng cũng tồn tại trong mối liên hệ với những cái riêng khác. Giữa cái riêng ấy bao giờ cũng có những cái chung giống nhau. Ví dụ, trong một lớp học có 30 sinh viên, mỗi sinh viên coi như “một cái riêng”; 30 sinh viên này (30 cái riêng) liên hệ với nhau và sẽ đưa đến những điểm chung: đồng hương (cùng quê), đồng niên (cùng năm sinh), đồng môn (cùng học một thầy/cô), đều là con người, đều là sinh viên,… Ví dụ, nền kinh tế của mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng phong phú là những cái riêng. Nhưng bất cứ nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi các quy luật chung như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng v..

  • mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.

Câu 10: Nguồn gốc nào của ý thức nói lên: Một hiện tượng mang bản chất xã hội? Vì sao? Cho ví dụ minh họa Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. “Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người, từ tâm lý động vật thành ý thức” -Lao động: +Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Đó là hoạt động chủ động, sáng tạo, có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. +Việc chế tạo ra công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục đích của hoạt động biến đổi thế giới. Nhờ có lao động, bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày càng cao. Thông qua hoạt động lao động cải tạo thế giới khách quan mà con người đã từng bước những thức được thế giới

và có ý thức ngày càng sâu sắc về thế giới. Cũng là lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng được củng cố và phát triển đến mức làm nảy sinh ở họ một nhu cầu “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó”. Và ngôn ngữ xuất hiện.

-Ngôn ngữ: Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin thì ngôn ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người. Nhờ có ngôn ngữ, con người không chỉ giao tiếp, trao đổi trực tiếp mà còn có thể lưu giữ, truyền đạt nội dung ý thức từ thế hệ này sang thế hệ khác… Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được

Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng không phải cứ có thế giới khách quan vào bộ óc con người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, một hiện tượng xã hội đặc trưng của loài người

Vd

Câu 11: Trong các bộ phận kiến trúc thượng tầng, bộ phận nào tác động lớn nhất tới cơ sở hạ tầng? Vì sao? Cho ví dụ minh họa. Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì kiến trúc thượng tầng về chính trị có vai trò quan trọng nhất, trong đó nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhà nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, là con dựa trên những hình thức nhất định của sự kiểm soát xã hội. Nhà nước sử dụng sức mạnh của bạo lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị và cũng cố vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Theo Ph.Ănghen: “Bạo lực tức là quyền lực nhà nước cũng là một sức mạnh kinh tế”. Và chỉ rõ, tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế theo hai chiều hướng cơ bản, nếu tác động cùng hướng với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn; nếu tác động ngược lại hướng phát triển kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, không chỉ có quyền lực nhà nước với tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng, và các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo,… cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác nhau, các cơ chế khác nhau. Song thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật, các thể chế tương ứng và chỉ qua đó chúng mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội Ví dụ: Điều hành của Đảng, nhà nước Việt Nam: Trong phòng chống dịch CoVid19, Nhà nước đã chỉ đạo các chuyến bay giải cứu người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách, cách ly xã hội để phòng ngừa.