Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo Bộ luật hình sự

Bên cạnh sự phát triển của xã hội, giao lưu văn hóa trong giai đoạn hiện đại hóa, công nghiệp hóa, thì có những mảng tiêu cực đó chính là sự xâm nhập của những luồng văn hóa độc hại, làm những ảnh hưởng và gia tăng các tội phạm về tình dục. Trong đó là tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

– Nghị quyết số 06/2019/NQ- HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự, hướng dẫn giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn xét xử và việc tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

1. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi là gì?

Tội cưỡng dâm người tử đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là một tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm đến quan hệ xã hội do pháp luật hình sự bảo vệ, người này dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác

2. Quy định của Bộ luật Hình sự về Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:

Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội danh này tại Điều 144 như sau:

“Điều 144. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tính chất loạn luân;

b) Làm nạn nhân có thai;

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 3 1% đến 60%;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Nhiều người cưỡng dâm một người;

b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Với nội dung trên, có thể thấy tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi có điểm khác biệt đó chính là hướng tới nhóm nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nhằm tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

3. Phân tích dấu hiệu pháp lý của tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:

Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm cưỡng dâm xâm hại- đó là quyền nhân thân của con người, cụ thể là quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Đối tượng tác động của tội phạm cưỡng dâm là người bị lệ thuộc người phạm tội hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách. Quan hệ lệ thuộc chỉ mối quan hệ mà nan nhân phải chịu sự phụ tuộc vào người phạm tội, có thể là quan hệ lệ thuộc vào mặt công việc, về mặt kinh tế, về mặt tín ngưỡng hay gia đình,…

Người đang ở trong tình trạng quẫn bách là người đang ở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, tự mình không thể hoặc khó có thể khắc phục được mà đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của người khác như trường hợp người thân trong gia đình bị mặc hiểm nghèo nên cần số tiền lớn cho chi phí y tế nhưng lại đang trong tình trạng túng thiếu nghiêm trọng,…

Tại Nghị quyết số 06/2019/ NQ- HĐTP hướng dẫn như sau:

“Người lệ thuộc” quy định tại khoản 1 Điều 143 và “đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình” quy định tại khoản 1 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị hại bị lệ thuộc vào người phạm tội về vật chất (ví dụ: người bị hại được người phạm tội nuôi dưỡng, chu cấp chi phí sinh hoạt hàng ngày…) hoặc lệ thuộc về tinh thần, công việc, giáo dục, tín ngưỡng (ví dụ: người bị hại là người lao động làm thuê cho người phạm tội; người bị hại là học sinh trong lớp do người phạm tội là giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên bộ môn…).

“Người đang ở trong tình trạng quẫn bách” quy định tại khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị hại đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bức bách nhưng không tự mình khắc phục được mà cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của người khác (ví dụ: không có tiền chữa bệnh hiểm nghèo; không có tiền để chuộc con mình đang bị bắt cóc…).

(Khoản 10, Khoản 11 Điều 3)

Chủ thể của tội cưỡng dâm:

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là người có năng lực nhận thức và điều năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định khi thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực có thể phải chịu trách nhiệm hình sự của một người nếu thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực trách nhiệm hình sự là một dạng năng lực pháp lý . Năng lực nhận thức là khả năng của chủ thể nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai theo chuẩn mực xác hội, hành vi đó được xã hội khuyến khích, bắt buộc hay bị xã hội ngăn cấm. Năng lực điều khiển hành vi là trên cơ sở của sự nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm thực hiện hành vi của họ cho là phù hợp với đòi hỏi của xã hội, kiềm chế không thực hiện hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại với lợi ích xã hội.

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12. Người đủ 16 tuổi trở lên có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng dâm người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Người tử đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng dâm ở khoản quy định là tội rất nghiêm tọng và đặc biệt nghiêm trọng.

Dấu hiệu khách quan của tội phạm:

Mặc khách quan của tội cưỡng dâm từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định trong Bộ luật Hình sự như sau: “Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”

Hành vi “Khiến” ở đây được hiểu là hành vi khống chế tư tưởng bằng việc lợi dụng quan hệ lệ thuộc và các hoàn cảng quẫn bách của nạn nhân để buộc họ phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác theo ý chí mình. Thông thường, việc khống chế tư tưởng được thực hiện bằng một hành vi công nhiên như một sự dọa dẫm, hứa hẹn. Người phạm tội có thể lợi dụng quan hệ lệ thuộc, lợi dụng uy tín của mình đe dọa sẽ gây thiệt hại cho người bị lệ thuộc nếu như không chịu giao cấu hoặc không chịu thực hiện giao cấu hoặc không chịu thực hiện hành vi quan hệ tình dục. Hành vi đe dọa ở tội cưỡng dâm người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi chưa đến mức làm người bị đe dọa tê liệt ý chí, không dám kháng cự như ở tội hiếp dâm; người đe dọa bị khống chế tư tưởng, họ vẫn có khả năng phản kháng những đã miễn cưỡng chịu giao cấu hoặc chịu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

Tại Nghị quyết số 06/2019/NQ- HĐTP thì có những hướng dẫn như sau:

“Giao cấu” quy định tại….. khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. (Khoản 1 Điều 3)

– “Hành vi quan hệ tình dục khác quy” định tại…. khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:

+ Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;

+ Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.

– Có tính chất loạn luân quy định tại điểm a khoản 2 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

+ Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;

+ Phạm tội đối với cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu ruột;

+ Phạm tội đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi;

+ Phạm tội đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế;

+ Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.

– Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại …. điểm d khoản 2 Điều 144, …. của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Nhiều người cưỡng dâm một người quy định tại …. và điểm a khoản 3 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là trường hợp 02 người trở lên cưỡng dâm 01 người. Cũng được coi là “nhiều người cưỡng dâm một người” nếu có từ 02 người trở lên cùng bàn bạc, thống nhất sẽ thay nhau cưỡng dâm 01 người, nhưng vì lý do ngoài ý muốn mới có 01 người thực hiện được hành vi cưỡng dâm.

Không coi là “nhiều người cưỡng dâm một người”, nếu có từ 02 người trở lên câu kết với nhau tổ chức, giúp sức cho 01 người cưỡng dâm (trường hợp này là đồng phạm).

Dấu hiệu “Làm nạn nhân có thai” thì nạn nhân có thai là hậu quả trực tiếp do hành vi cưỡng dâm của người phạm tội gây ra, đây là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sụ vì nạn nhân còn chịu thêm tác động tâm lý nhìn chung là không tích cực do việc mang thai.

“Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 3 1% đến 60%” là trường hợp hành vi của nạn nhân mà chủ thể thực hiện là nguyên nhân dẫn đến việc nạn nhân bị gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương từ 31% đến 60%. Thương tích là dấu vết để lại trên thân thể của nạn nhân, như thể có thể hiểu là việc tác động vào cơ thể con người, gây tổn thương một bộ phận hoặc toàn bộ cơ thể, hoặc gây tổn hại hay làm mất chức năng của một cơ quan trong cơ thể con người. Gây rối loạn tâm thần là việc tạo ra tình trạng lộn xộn về tâm trí và tinh thần; gây rối loại hành vi là việc tạo ra tình trạng lộn xộn về cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của nạn nhân.

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện phạm tội cưỡng dâm.

Dấu hiệu phạm tội mà biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội, là trường hợp chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội biết rõ mình là người đang bị nhiễm virus HIV.

Mặt chủ quan của tội phạm:

Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp