1.Căn cứ pháp lý
Điều 295 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về tài sản đảm bảo như sau:
“Điều 295. Tài sản đảm bảo 1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. 2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được. 3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. 4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”
Bạn đang xem: Quy định của pháp luật về tài sản đảm bảo?
2.Nội dung
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm động sản và bất động sản, đều có thể trở thành tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm. Bởi, chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định đoạt tài sản, việc đưa tài sản tham gia vào các giao dịch dân sự mới được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Việc dùng tài sản làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là hành vi định đoạt, sử dụng tài sản mà chỉ có chủ sở hữu mới có quyền. Mặt khác, khi xử lý tài sản đảm bảo sẽ rất khó khăn cho bên mua khi mua tài sản mà không được đảm bảo về quyền sở hữu, dễ dẫn đến tranh chấp sau này. Riêng với biện pháp bảo đảm cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu thì tài sản không bắt buộc phải là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm. -Đối với biện pháp cầm giữ, tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ, do đó tài sản không phụ thuộc vào việc nó có thuộc quyền sở hữu của bên có nghĩa vụ hay không. Khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ, bên có quyền sẽ có quyền cầm giữ tài sản đó cho đến khi bên có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Ví dụ: A mượn xe của B, do bất cẩn nên A đã làm hỏng xe nên phải đem đi sửa chữa; lúc này giữ A và bên sửa xe phát sinh quan hệ song vụ, theo đó, A có quyền yêu cầu cửa hàng sửa xe cho mình và nghĩa vụ thanh toán tiền cho họ, trong khi đó bên sửa xe có nghĩa vụ sửa xe cho A và có quyền được thanh toán tiền công. Cửa hàng có quyền cầm giữ chiếc xe (dù chiếc xe thuộc sở hữu của B) cho đến khi A thanh toán toàn bộ chi phí cho việc sửa chữa. -Bên cạnh đó, đối với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu: đây là quan hệ mua bán theo hình thức mua chậm, trả dần, do đó, bên bán là bên có quyền lợi được đảm bảo (vì quyền được bảo đảm thanh toán của bên bán, tương ứng với nghĩa vụ thanh toán của bên mua bằng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu). Tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên bán, cho đến khi bên mua trả hết tiền mua. Khoản 2 Điều 8 nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật Dân sự về quy định về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, khẳng định tài sản dùng để đảm thực hiện nghĩa vụ là: “Tài sản bán trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu”. Ví dụ: trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên mua do chưa đủ tiền nên có thể thỏa thuận mua tài sản theo phương thức trả góp trong thời hạn nhất định do hai bên thỏa thuận. Hai bên có thể ký hợp đồng bảo lưu quyền sở hữu, theo đó, mặc dù tài sản đã chuyển giao cho bên mua nhưng vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán cho đến khi bên mua thanh toán hết tiền. Do đó, bên mua mặc dù là bên đảm bảo nhưng lại không phải chủ sở hữu của tài sản đó. Do tài sản đảm bảo luôn có sự thay đổi, biến động về số lượng, chủng loại và giá trị hàng hóa như hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh hay kho hàng[1]. Vì vậy, pháp luật cho phép mô tả chung về tài sản đảm bảo. Điều 9 nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật Dân sự về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, quy định về mô tả tài sản đảm bảo như sau:
Xem thêm : Pháp luật quy định như thế nào đối với trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự?
“Điều 9. Mô tả tài sản bảo đảm 1. Việc mô tả tài sản bảo đảm do bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm thỏa thuận, phù hợp với quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, các Điều 12, 13, 18 và 19 Nghị định này. 2. Trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản, động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký thì thông tin được mô tả theo thỏa thuận phải phù hợp với thông tin trên Giấy chứng nhận. 3. Trường hợp tài sản bảo đảm là quyền tài sản thì thông tin được mô tả theo thỏa thuận phải thể hiện được tên, căn cứ pháp lý phát sinh quyền tài sản”
Nếu luật không cho phép các bên mô tả chung tài sản đảm bảo thì sẽ rất khó khăn trong việc mô tả tài sản đảm bảo, vì mỗi lần hàng hóa có sự biến động, thay thế các bên sẽ lại phải thỏa thuận, đàm phán về việc mô tả lại tài sản đảm bảo. Mặc dù pháp luật cho phép các bên tự do thỏa thuận mô tả tài sản đảm bảo, tuy nhiên, việc mô tả chung phải có giới hạn nhận định. Tài sản được mô tả phải xác định được, tránh trường hợp mô tả quá chung, không rõ ràng, dẫn đến việc gây nên những tranh chấp phát sinh, hoặc khó khăn trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo. Do đó, ngoài việc mô tả chung tài sản đảm bảo, pháp luật còn quy định việc mô tả phải xác định được. Tài sản đảm bảo có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Theo khoản 2 Điều 108 BLDS năm 2015 thì, tài sản hình thành trong tương lai là tài sản chưa tồn tại, đang được xây dựng, đầu tư và chắc chắn sẽ hình thành trong tương lai, hoặc là tài sản đã hình thành nhưng tại thời điểm xác lập giao dịch vẫn chưa xác lập quyền sở hữu. Ví dụ: Nhà đang xây dựng, vụ mùa đang chăm sóc và sẽ được thu hoạch, tài sản thừa kế, tặng cho,…Do tài sản hình thành trong tương lai là tài sản chắc chắn rằng sẽ thuộc sở hữu của chủ thể tham gia xác lập giao dịch, mà pháp luật cho phép có thể dùng tài sản hình thành trong tương lai làm tài sản đảm bảo. Ví dụ: Khoản 1 Điều 148 Luật nhà ở năm 2014 quy định về điều kiện thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai như sau:
“1. Điều kiện thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở, thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai được quy định như sau: a) Trường hợp chủ đầu tư thế chấp một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải có hồ sơ dự án, có thiết kế kỹ thuật của dự án được phê duyệt và đã có Giấy chứng nhận hoặc quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; b) Trường hợp chủ đầu tư thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai xây dựng trong dự án thì ngoài điều kiện quy định tại điểm a khoản này, nhà ở thế chấp phải thuộc diện đã xây dựng xong phần móng theo quy định của pháp luật về xây dựng và không nằm trong phần dự án hoặc toàn bộ dự án mà chủ đầu tư đã thế chấp theo quy định tại điểm a khoản này; c) Trường hợp tổ chức, cá nhân thế chấp nhà ở quy định tại khoản 2 Điều 147 của Luật này thì phải có giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất ở hợp pháp theo quy định của pháp luật về đất đai, Giấy phép xây dựng nếu thuộc diện phải có Giấy phép xây dựng. Trường hợp người thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai mua nhà ở của chủ đầu tư trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải có hợp đồng mua bán nhà ở ký kết với chủ đầu tư, có văn bản chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở nếu là bên nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở theo quy định, có giấy tờ chứng minh đã đóng tiền mua nhà ở cho chủ đầu tư theo tiến độ thỏa thuận trong hợp đồng mua bán và không thuộc diện đang có khiếu nại, khiếu kiện, tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở hoặc về việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở này”
Thông thường, vì sự an toàn của bên có quyền, tài sản đảm bảo có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các bên thuận lợi tham gia vào các giao dịch dân sự, dưa trên cơ sở tôn trọng thỏa thuận, mong muốn của các bên, pháp luật cũng cho phép các bên thỏa thuận về giá trị của tài sản đảm bảo có thể bằng hoặc nhỏ hơn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm. Ngoài ra, tài sản được dùng để bảo đảm có thể là tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự
Luật Hoàng Anh
[1] PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ – PGS.TS.Trần Thị Huệ,(2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,Nxb.Công an nhân dân.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp