Triết học Mác – Lênin với việc giải quyết một số vấn đề cơ bản trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ra mắt Đại hội. Ảnh: Internet.

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

Thế giới quan duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây là cơ sở khoa học giúp con người đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và mục đích, ý nghĩa của cuộc sống; hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động, từ đó xác định thái độ và cách thức hoạt động; nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác định nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội.

Phương pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn; trang bị hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học – tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật. Từ đó, thấy được phương hướng vận động chung của sự vật; xác định được con đường cần đi, cách đặt vấn đề và phương hướng giải quyết vấn đề…

Như vậy, xuất từ lập trường quan điểm của triết học Mác – Lênin, con người có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Điều này thể hiện giá trị định hướng – một biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin trong giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc sống. Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội”, “Đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định; đào tạo chưa gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội”. Đây chính là cơ sở để Đảng ta xác định các chính sách mới, đúng đắn, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục – đào tạo, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Đó là những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII về: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài…; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Với thế giới quan duy vật biện chứng, Đảng ta đã xác định đúng con đường, bước đi, đồng thời với phương pháp luận biện chứng duy vật giúp chúng ta giải quyết tốt những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, như đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước ta sau 35 năm đổi mới: “Đảng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, trên các lĩnh vực: kinh tế; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển văn hóa, xã hội, con người; chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được củng cố; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ; công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ…”.

TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng dự báo: “tình hình thế giới diễn biến phức tạp và khó lường, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn; kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của Đại dịch COVID-19…”. Thực tế này đã tác động đến sự nghiệp đổi mới của nước ta, đặt ra những vấn đề lý luận cần giải quyết từ góc độ triết học.

Thứ nhất, về các mối quan hệ lớn của sự nghiệp đổi mới

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”. Từng mối quan hệ lớn có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu và làm rõ trong giai đoạn hiện nay như: vấn đề muốn phát triển lực lượng sản xuất cần tập trung phát triển các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển giáo dục đào tạo, hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo; về khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khoa học và công nghệ là động lực trong phát triển kinh tế – xã hội; vấn đề xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp trong giai đoạn hiện nay; vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường; về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…

Để giải quyết các mối quan hệ trên, trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng của Triết học Mác – Lênin, chúng ta phải quán triệt và vận dụng sáng tạo các quan điểm khách quan, toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm phát triển và quan điểm thực tiễn trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn. Các quan điểm này có quan hệ biện chứng với nhau, nhưng không thay thế cho nhau, nên không thể tuyệt đối hóa hay xem nhẹ bất kỳ quan điểm nào.

Hai là, về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(1). Thực tế, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, thành tựu trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011); đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động mạnh, phức tạp hiện nay, “Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sự nghiệp xây dựng CNXH là sự nghiệp lâu dài, khó khăn, gian khổ, diễn ra trong bối cảnh CNXH trên thế giới lâm vào thoái trào; thế giới đang trải qua những biến động to lớn, phức tạp… Hơn nữa, quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam là quá trình vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, khái quát thành tựu lý luận trên cơ sở lấy thực tiễn làm chân lý. Từ thực tiễn đó, Đảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới về CNXH; khắc phục những quan điểm giáo điều, giản đơn, ấu trĩ về CNXH. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được hình thành trên những nét cơ bản. Sự phát triển đất nước và những thành tựu đạt được qua 35 năm đổi mới là những minh chứng thuyết phục cho con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, như Đảng ta khẳng định “Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.

Ba là, hội nhập quốc tế và việc tiếp thu tinh hoa văn hóa, văn minh nhân loại

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, ngoại giao nhân dân đã đạt được những kết quả quan trọng. “Hội nhập quốc tế và ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển có những bước tiến quan trọng về chủ trương, chính sách cũng như triển khai trên thực tiễn, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Mạng lưới các mối quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện tiếp tục được củng cố và mở rộng; quan hệ với các nước từng bước đi vào chiều sâu; thúc đẩy ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (…); các hoạt động ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại được triển khai tích cực…”. Những thành tựu to lớn trên đã khẳng định hội nhập quốc tế là chủ trương nhất quán đúng đắn của Đảng ta trong 35 năm qua. Từ Đại hội VI, mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng sâu rộng vào phân công và hợp tác quốc tế; đến Đại hội XIII xác định triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trên các mặt, “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và Luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”. Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”. “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”, “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị – kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”.

Như vậy, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về đặc điểm của môi trường quốc tế cũng như các hệ thống công cụ, quyền lực được sử dụng để chi phối, kiểm soát và vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế không giới hạn trong một phạm vi hay một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế, mà nó lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu.

Bốn là, về tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

“Lấy dân làm gốc” là một trong những triết lý sâu sắc trong kho tàng tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đó đã được thể chế hóa trong Hiến pháp, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta qua nhiều thời kỳ.

Tại Đại hội XIII, tư tưởng lấy dân làm gốc đã được đúc kết thành bài học, với những nguyên tắc cơ bản, định hướng mọi chủ trương, sách lược của Đảng trong giai đoạn mới “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm lấy “dân làm gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thật sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Điểm mới trong Nghị quyết Đại hội Đảng XIII so với Nghị quyết Đại hội Đảng XII về tư tưởng “lấy dân làm gốc” chính là “dân thụ hưởng”. “Dân thụ hưởng” nghĩa là người dân có quyền được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới; khi người dân được thụ hưởng, được thỏa mãn những lợi ích chính đáng, sẽ tạo thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhân dân hăng hái cống hiến và đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước; thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng và Nhà nước đến đời sống của nhân dân; là sự phát triển trong nhận thức của Đảng, là động lực để Đảng ta hoàn thiện các chủ trưởng, đường lối trong tiến trình phát triển, lãnh đạo đất nước.

Qua các giai đoạn cách mạng, tư tưởng “lấy dân làm gốc” không ngừng được bổ sung, phát triển. Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm quan điểm lấy dân làm gốc. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Dân làm gốc chính là phải phát huy và bảo đảm tốt hơn, thực chất hơn quyền làm chủ của nhân dân. Để chủ trương “lấy dân làm gốc” của Đảng ta đi vào cuộc sống thì Đảng, Nhà nước cần quan tâm, chăm lo, đặt lợi ích của nhân dân lên trước hết và trên hết trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách. Nhân dân được thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển. Bài học “lấy dân làm gốc” sẽ trở nên sâu sắc và ý nghĩa hơn khi chủ trương này được thực thi một cách hiệu quả./.

ThS. Hoàng Thị Ngân Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam