Tiểu sử tác giả Hữu Thỉnh hay và chi tiết nhất

Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của đất nước. Thơ văn của ông luôn gắn liền với các trường kỳ kháng chiến, để hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Hữu Thỉnh mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây!

Ông Hữu Thỉnh đề nghị Chính phủ hỗ trợ kinh phí cho văn nghệ sĩ đến 2025 - VnExpress

1. Tiểu sử Hữu Thỉnh:

Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại Phú Vinh – Duy Phiên – Tam Đảo (Tam Dương) – Vĩnh Phúc. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học ở một vùng quê thuần nông, cuộc đời ông có một tuổi thơ khó khăn: lên 6 tuổi ở với chú, lên 10 tuổi phải bươn chải đủ thứ nghề, đủ nghề để kiếm sống. Các nơi đồn trú của Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thủ, Thanh Vân.

Sau hòa bình lập lại năm 1954, ông mới được đi học. Anh tốt nghiệp cấp 3 và nhập ngũ năm 1963, sau trở thành binh nhì Trung đoàn 202. Từ đó, Hữu Thỉnh tham gia nhiều hoạt động như chăn bò, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội và dạy văn hóa. , viết nhật ký và làm giáo viên. Từng chinh chiến ngoài Bắc mấy năm, kinh qua hầu hết các chiến trường đẫm máu như Đường 9.

Sau 1975, Hữu Thỉnh theo học trường Văn khoa Nguyễn Du và là một trong những học sinh khóa đầu tiên của trường.

Từ năm 1982, ông làm biên tập viên, trưởng ban thơ, phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ năm 1990, Hữu Thỉnh tham gia Hội Nhà văn Việt Nam, làm chủ bút tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các khóa III, IV, V và là Ủy viên Ban thư ký khóa III. .

Hữu Thỉnh lần lượt là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (hiện là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam), Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3 lần), đồng thời là Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy. Ban Tư tưởng – Văn hóa, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (khóa X). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ngay sau giải thưởng thơ, Hữu Thỉnh trở về tham gia một trại sáng tác ở Hà Nội, Hữu Thỉnh bắt tay vào viết tập Đường vào thành phố, đây là một trong những tập thơ quan trọng và cũng là một tác phẩm hay của thơ Việt Nam hiện đại. . . Mở đầu thiên sử thi này là chương “Ngọn lửa chiến trường”, ngay những câu đầu tiên nói về những chiến binh vươn đôi bàn tay lạnh giá về phía ngọn lửa sưởi ấm mình trong suốt chặng đường dài bận rộn.

2. Phong cách viết của tác giả Hữu Thỉnh:

Hữu Thỉnh xuất thân từ phong trào văn nghệ dân gian, lớn lên làm thơ; Anh bén duyên với văn chương từ thuở nhỏ, viết kịch và đóng kịch từ năm lớp 8. Hữu Thỉnh là đội trưởng tuyên huấn trong quân đội và chủ bút báo tăng thiết giáp (quân đội).

Hữu Thỉnh là người từng trải, viết nhiều, thường viết về cuộc sống của người dân, người nông dân. Thơ ông giàu chất thơ, giản dị nhưng vô cùng nhạy cảm và sâu lắng. Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của đất nước. Thơ ông luôn gắn với các thời kỳ kháng chiến.

“Sang thu” được biết đến là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hữu Thỉnh. Có lẽ thời khắc chuyển mùa là khoảng thời gian đẹp nhất khi nó gửi vào lòng người những rung động ngọt ngào. “Sang thu” là bài thơ mà tác giả rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh thơ đẹp, ca từ rất nhạy cảm và giọng thơ nhẹ nhàng đã tạo nên một “Sang Thu” đầy ý nghĩa.

3. Các tác phẩm tiêu biểu của tác giả Hữu Thỉnh:

Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm:

‐ Âm vang chiến hào (in chung, 1976)

‐ Đường tới thành phố (trường cả, 1979), 5 chương

‐ Tiếng hát trong rừng (thơ, 1985)

‐ Từ chiến hào đến thành phố (trường cả, thơ ngắn, 1985)

‐ Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhỉ, in chung)

‐ Thư mùa đông (thơ, 1994)

‐ Trường ca biển (trường cả, 1994), 6 chương

‐ Thơ Hữu Thỉnh (thơ tuyển, 1998)

‐ Sức bền của đất (trường ca, 2004)

‐ Thương lượng với thời gian (thơ, 2005)

‐ Hoang đại dưới trời (thơ chọn, 2010)

‐ Trăng Tân Trào (2016), 8 chương

‐ Ghi chú sau mây (thơ, 2020)

‐ Đường lửa mùa xuân (tập truyện ký, 1987)

‐ Mưa xuân trên tháp Pháo (Truyện ký, 2009)

‐ Lý do của hy vọng (Truyện ký, 2010)

‐ Bến văn và những vòng sóng (tiểu luận, phê bình, 2010)

4. Các giải thưởng văn học của tác giả Hữu Thỉnh:

‐ Giải A cuộc thi thơ báo văn nghệ 1975-1976 bài “Chuyến đò đêm giáp ranh”, trường ca “Sức bền của đất”

‐ Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980 với Trường ca “Đường tới thành phố”

‐ Giải thưởng Bộ đại học, trung học và chuyên nghiệp và Trung ương Đoàn (1991)

‐ Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 với tập thơ “Thư mùa đông”

‐ Giải xuất sắc Bộ Quốc phòng năm 1994 với Trường ca biển

‐ Giải thưởng văn học ASEAN năm 1999

‐ Giải thưởng Nhà nước về Văn học đợt I, 2001

‐ Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2012

5. Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh:

5.1. Hoàn cảnh sáng tác:

Bài thơ bắt nguồn từ cuối năm 1977, khi đất nước mới hòa bình thống nhất, được in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”.

5.2. Cách trình bày:

Câu 1: Tín hiệu nhận được từ sự cảm nhận thiên nhiên khi chuyển mùa.

Câu 2: Cảm nhận cảnh đất trời vào thu.

Câu 3: Những chuyển mình thầm lặng của tạo vật và những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời lúc chớm thu.

5.3. Giá trị nội dung:

Bài thơ là một tình cảm thực sự nhạy cảm và sự quan sát tỉ mỉ của tác giả về sự chuyển mình của đất trời từ cuối hè sang thu. Đó là cách thể hiện tình yêu tha thiết của một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc đối với thiên nhiên.

5.4. Giá trị nghệ thuật:

Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, hấp dẫn, cảnh vật được miêu tả tự nhiên, chân thực, ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, gợi nhiều cảm xúc.

5.5. Phân tích tóm tắt bài thơ “Sang thu”:

Giới thiệu: Giới thiệu khái quát về tác giả Hữu Thỉnh và bài thơ Sang Thu.

Nội dung thư:

a.Khổ thơ đầu:

– Đột ngột: bất ngờ, không kịp chuẩn bị, ngạc nhiên, bất ngờ.

– Ổi: đặc trưng của mùa thứ hai, báo hiệu mùa thu đã đến. – Phát sinh chủng loại: Động từ chỉ hành động mạnh.

– Gió heo may: Gió heo may, dễ làm cho người ta cảm thấy khô lạnh.

– Chậm chạp: tính từ diễn tả cảm giác chậm chạp, thờ ơ.

– Hình ảnh nhân hóa “Sương Nuốt”: Diễn tả một làn sương nhẹ bắt đầu giăng, có lẽ như sương đang dừng lại để đợi ai đó.

⇒ Tác giả cảm nhận sự thay đổi của không gian bằng nhiều giác quan tinh tế: khứu giác (mùi ổi), xúc giác (ý ​​chí của gió), thị giác (giọt sương) và tâm hồn (hình như mùa thu đã qua). Tác giả Hữu Thỉnh thể hiện hình ảnh mùa thu qua hình ảnh, dáng vẻ, cảm giác và cả những niềm vui: hương ổi, gió, sương, v.v. Đó là sự kết hợp của nhiều điểm nhìn khác nhau qua bốn khổ thơ ngắn. Ngắn gọn nhưng đủ để người đọc hình dung được đặc điểm của mùa thu, và hình ảnh mùa thu của quê hương thanh bình sẽ được nhìn rõ hơn, đẹp hơn.

⇒ Quanh năm người người bận rộn, mùa thu đã đến, con ngõ mà sương mù không muốn đi qua có lẽ là con ngõ mùa thu của cuộc đời.

Khổ thơ thứ hai:

– Dòng sông: không còn mang theo sự xôn xao mà bây giờ như chậm lại để cảm nhận và trân trọng vẻ đẹp êm đềm của mùa thu.

– Đàn chim: Vào mùa thu tuyệt đẹp này, có thể nhìn thấy hình ảnh của một đàn chim từ dòng sông. Khi dòng sông chảy chậm lại để cảm nhận tiết trời mát mẻ, ôn hòa, những chú chim nhốn nháo tìm thức ăn và chuẩn bị tổ ấm cho mùa đông khắc nghiệt phía trước.

– Mây: Không còn mang màu xanh ngắt của mùa hè oi bức, những đám mây dường như dịu lại, mềm mại uốn thành một đường cong nhẹ nhàng để chuyển dần sang thu.

– Động từ “vắt” thể hiện sự tinh nghịch và tinh thần của đám mây, đồng thời làm cho đám mây thêm lay động, hình ảnh trở nên ngọt ngào, thú vị. Mây “chỉ còn một nửa mình trong mùa thu” như khao khát một mùa hè đầy sóng gió.

→ Bốn khổ thơ diễn tả sự thay đổi tinh tế của cảnh sắc từ hạ sang thu. Mỗi cảnh đều có nét riêng nhưng tất cả đều làm cho hình ảnh mùa thu thêm thi vị.

c.Khổ thơ thứ ba

– Dư âm của mùa hè vẫn còn đó: nắng chói chang, mưa rào, sấm chớp. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn, mượt mà hơn, bất ngờ hơn và khó khăn hơn.

– Hai câu thơ cuối: hình ảnh cơn bão thường xuất hiện bỗng chỉ gợi lại những cơn mưa rào mùa hạ. Chúng cũng là những âm vang khác thường của thế giới bên ngoài, của cuộc sống. “Cây già” gợi đến những con người đã từng sống qua, vượt qua những khó khăn, bấp bênh của cuộc đời. Đây là cách mọi người trở nên ổn định hơn.

Kết bài: Nhận xét sâu sắc về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ và cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm

6. Mọi người cũng hỏi

Tác giả Hữu Thỉnh sinh năm nào và mất năm nào?

Hữu Thỉnh sinh năm 1936 tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng và mất vào năm 2020.

Cuộc đời và sự nghiệp của Hữu Thỉnh có điểm gì đáng chú ý?

Hữu Thỉnh là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của văn học miền Nam Việt Nam. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của thế hệ văn nghệ sáng tác sau cách mạng.

Hữu Thỉnh có tác phẩm nổi tiếng nào?

Một số tác phẩm nổi tiếng của Hữu Thỉnh gồm có: “Những người lái đò sông Hậu”, “Làng quan Trường Thành”, “Chiếc cày”, “Nỗi niềm xứ đoàn kết” và nhiều tác phẩm khác.

Tác phẩm của Hữu Thỉnh có ảnh hưởng như thế nào trong văn học Việt Nam?

Tác phẩm của Hữu Thỉnh mang dấu ấn sâu sắc về cuộc sống, con người và tình yêu đất nước. Ông đã góp phần làm phong phú văn học miền Nam và đưa tên tuổi của văn học miền Nam Việt Nam ra quốc tế.