Lịch sử 4.000 năm của cộng đồng người Việt sống trên đất nước Việt Nam đã được sử sách lưu dấu từ khi hình thành nhà nước Văn Lang của các vua Hùng cho tới ngày nay. Theo dòng chảy lịch sử, cùng với sự hình thành các tộc người Việt cũng đã hình thành các họ tộc của người Việt Nam từ xa xưa như: họ Đinh, Lê, Lý, Trần, Trịnh, Nguyễn, Hồ, Võ, Trương, Ngô, Phan… tạo nên cộng đồng hơn 54 dân tộc của người Việt, góp phần nên sự trường tồn của Đại Việt xưa và Việt Nam ngày nay. Họ Lê là một trong những giòng họ phổ biến ở nước ta, quy mô lớn, chiếm 15% dân số nước ta hiện nay.
Bạn đang xem: Nguồn gốc Họ Lê Việt Nam qua các nguồn phả, ngọc phả của một số dòng họ Lê và các nguồn tư liệu khác
Xem thêm : Số 83 có ý nghĩa gì? Luận giải #3 ý nghĩa biển số xe 83
Không ngờ nạn chiến tranh lấn chiếm tiếp diễn thời bấy giờ là sự bất quá tam của những người bỏ xứ ra đi một phương trời lại được 23 tộc như sau: Đinh, Lê,Trần, Phạm, Mã, Lương, Hồ, Mạc, Nguyễn, Đặng, Võ, Ông, Thái, Châu, Phùng, Cù, Văn, Đàm, Hà, Lý, Tôn, Hứa, Trịnh, tổng kết được 3,700 dân từ lớn đến nhỏ (nam, nữ kể chung). Kẻ trước, người sau cứ phương Nam mà Tiến, ngày đi, đêm nghỉ, cuối cùng tràn qua xử đất Nam mang, biên giới Lạng,Hà Nam xứ này đời xưa gọi là ranh giới đều tay áo những dân tộc chậm tiến. Đến đây tiền thân là cùng сác Tộc bằng dựng tướng Lạc Hùng (cháu Hùng Vương) sắp đặt binh bị để chống lại kẻ thù không đội trời chung là(Trung Quốc bây giờ). 3. An Dương Vương là Tổ Họ Lê theo sách Lễ hội và Danh nhân Lịch sử Việt Nam của tác giả Hà Hùng Tiến (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội 1997): Kể từ lúc Hồng Bàng dựng nước, truyền 108 vị vua kể cả Phù Đổng, Tản Viên và 18 vị vua Hùng, đến đời Hùng Vương thứ 18 là Hùng Duệ Vương tên húy là Duệ Lang (Huệ Lang) hạ sinh 22 Hoàng nam, 24 Hoàng nữ, thời kỳđầu rất thông minh chính trực, nhưng từ khi lấy một người họ Lê là cô ruột của Thục Phán, Hùng Huệ Vương lại đam mê tửu sắc, bị Thục Vương và Cao Lỗ lừa phục rượu, để cô của Thục Phán sai giết hết tất cả con trai, con gái, dâu rể.Cơ đồ nhà Hùng đang văn minh rực rỡ bỗng chốc rơi vào tay Thục Phán, năm 258 trước Công Nguyên Thục Phán lên ngôi xưng là An Dương Vương, bỏ quốc hiệu Văn Lang đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Đông Kinh, xây thành Cổ Loa. Thục Phán mất năm 179 trước Công nguyên, làm vua được 30 năm.Thục Phán An Dương Vương là người giòng họ Lê , con cháu giòng Lê đại tộc bắt nguồn từ đây, trải qua 2.230 năm hình thành và phát triển đất nước, từ năm 258 BC đến nay dòng họ Lê đã cống hiến không biết bao nhiêu xương máu cho Tổ quốc, nổi bật là hai Triều đại Tiền Lê và Hậu Lê. Đó là niềm tự hào cho tất cả những ai được mang giòng máu họ Lê, Để nhớ mãi: Cội nguồn của chúng ta Thục Phán An Dương Vương là ông Tổ của giòng Lê đại tộc (trích). Qua khảo cứu và nhiều lần về làng Vân Nội, xã Phú Lương,huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, tôi được biết Bách Việt tộc phả và Cổ lôi ngọc phả truyền thư (hiện còn bản gốc Hán Nôm) là nguồn phả của Họ Nguyễn Vân nguyên trưởng làng Vân Nội, xã Phú Lương, huyện Thanh Oai,thành phố Hà Nội được Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính (Nguyễn Bính là cha đẻ của Trạng Nguyên Nguyễn Quốc Trinh 阮國楨, 1624-1674), La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp và sau này là các Hương Quận công của dòng họ này phụng soạn, chỉnh tu qua nhiều đời cho đến ngày nay. Trong Bách Việt tộc phả và Cổ lôi ngọc phả truyền thư có ghi An Dương Vương là người họ Lê, tên Lê Phán. Chính vì vậy, tác giả Hà Hùng Tiến đã viết trong sách Lễ hội và Danh nhân Lịch sử Việt Nam An Dương Vương là ông Tổ họ Lê. Trong Sự tích văn hóa lịch sử Việt Nam – Thời đại trước Công nguyên, của tác giả Vũ Tuấn Doanh (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin) cũng đề cập An Dương Vương là người họ Lê,tên Lê Thục Phán. Các bản phả gốc này hiện nay vẫn còn được lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Vân – Vân Nội do ông Nguyễn Văn Liên, Trưởng tộc phụ trách và xem như bảo vật của dòng họ mình. 4. Người họ Lê có tên trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng (Năm 40 – 43):Khởi nghĩa Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa đã đánh đuổi được lực lượng cai trị nhà Đông Hán ra khỏi Giao Chỉ (tương đương một phần Quảng Tây, Trung Quốc và Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay), mang lại độc lập trong 3 năm cho người Việt tại đây. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng quy tụ nhiều giòng họ tham gia như họ Lã, họ Đặng, họ Nguyễn, họ Phùng, họ Đào…được ghi trong các thần tích, ngọc phả. Trong đó Họ Lê có các tướng lĩnh như Lê Hoàn, Lê Hiệp, Lê Chân. Tương truyền, Lê Chân quê ở làng An Biên (tên cổ là làng Vẻn), Đông Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc thôn An Biên, xã Thuỷ An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Theo thần tích đền Nghè, cha Lê Chân là Lê Đạo và mẹ bà là Trần Thị Châu. Ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc, sống rất nhân từ, quảng đại và sẵn lòng bao dung cứu giúp kẻ nghèo khó, sa cơ lỡ bước. Những ân nghĩa của ông ban ra làm dân chúng xa gần mến phục. Bà vợ ông là người cũng nổi tiếng là người thuỳ mị, đảm đang và nhân đức.
Theo truyền thuyết dân gian, trong các lễ hội, ngày 8 tháng 2 âm lịch là ngày sinh và 25 tháng 12 âm lịch là ngày mất của Lê Chân. Các vua đời sau cũng có chiếu phong bà là Thượng đẳng Phúc thần công chúa. Để nhớ công ơn khai khẩn của Bà, Hải Phòng đặt tên một quận mang tên Bà và dựng tượng Bà tại gần trung tâm thành phố; đồng thời, tên của bà được đặt tên cho giải thưởng “Nữ tướng Lê Chân” để trao cho những phụ nữ có thành tích xuất sắc của đất Cảng. 5. Họ Lê là họ thuần Việt: Họ Lê – Trung Quốc gọi là Cửu Lê, vốn gốc từ họ Cửu Di nên người Trung Quốc nguyên gốc họ Lê không có như họ Lê Việt Nam. Căn cứ An Nam chí lược của Lê Tắc (biên soạn nửa đầu thế kỷ 14): Trong danh sách các viên quan Thứ Sử, TháiThú ở các Quận Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam, phụ-biên các quan Thứ-Sử, Thái-Thú Trung Quốc từ đời Tam Quốc đến đời Nhà Trần được phái sang cai trị ở nước ta thì không tìm thấy, ông quan nào mang họ Lê (Trung Quốc). Theo Nhà Biên khảo Vũ Hiệp: Giòng họ Lê có dân số đông thứ nhì trong tổng dân số Việt Nam. Họ Lê chỉ đặc biệt có ở người Việt nước ta mà thôi. Trong lịch sử Trung Quốc rất hiếm có người họ Lê, hơn một ngàn năm Bắc Thuộc không có một viên quan cai trị nào mang họ Lê. Bởi vậy nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Họ Lê là một trong những họ đặc trưng của dân tộc Lạc Việt đã định cư ở đất Thanh Hoá -Ninh Bình từ rất lâu đời đến nay.
Xem thêm : Căn cứ vào cơ sở nào dưới đây để phân biệt một vài vật là đối tượng lao động hay tư liệu lao động?
Ngày nay họ Lê có thể chiếm đến 15% dân số nước ta, là một dòng họ đã có đến hai lần lập ra triều đại Vương quyền: Tiền Lê và Hậu Lê, tổng cộng 399 năm. Trong danh sách khoa bảng triều Nguyễn trong 115 năm có đến 650 vị Hương Cống, Cử Nhân, Tiến Sĩ, Phó Bảng là con cháu họ Lê trong 5.230 vị đăng khoa. Nghiên cứu về giòng họ Lê vô cùng thú vị, vì có nhiều danh nhân lịch sử, văn hóa nước ta mang giòng họ này. Đặc biệt những vị Thủy Tổ của nhiều chi phái họ Lê ở nước ta đều xuất xứ trên đất Đại Việt, không hề có ai gốc tích từ Trung Quốc sang mang giòng họ Lê (Trích tham luận của Nhà Biên khảo Vũ Hiệp, bản tin No: 01 ngày 26 Jun 1999 Trung tâm UNESCO Phát triển Nhân Văn TP. Hồ Chí Minh).
Ngày cuối năm Tây lịch 31/12/2020 TS.BS Lê Văn Nho
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp