1. Quan niệm về kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) xác định:
Bạn đang xem: Kinh tế tư nhân: Quan niệm và giải pháp phát triển
“Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”(1). Kinh tế tư nhân ở đây bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. “Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đều thuộc cùng loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể. Mặc dù về mặt lý luận, quan điểm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân là hai thành phần kinh tế khác nhau, khác nhau về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và bản chất quan hệ sản xuất”(2).
Sự khác nhau về bản chất quan hệ sản xuất thể hiện ở điểm mấu chốt là kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên sở hữu tư nhân, nhưng là sở hữu tư nhân của người sản xuất hàng hóa nhỏ; còn kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân, nhưng là sở hữu tư nhân lớn tư bản chủ nghĩa của nhà tư sản. Tuy nhiên, khi nhà tư bản thu được khối lượng giá trị thặng dư lớn, sau đó dùng phần lớn số giá trị thặng dư đó để đầu tư tái sản xuất mở rộng, để đảm bảo phúc lợi cho người lao động…, họ chỉ dành một phần nhỏ trong khối lượng giá trị thặng dư đó cho tiêu dùng cá nhân, thì họ là một ông chủ tiến bộ, tích cực, chứ không phải là nhà tư bản theo đúng nghĩa của nó.
Với quan niệm như trên, ở nước ta hiện nay, những chủ doanh nghiệp tư nhân đang bỏ nhiều vốn kinh doanh, thuê nhiều lao động và tất nhiên thu được một món lợi nhuận không nhỏ, nhưng họ vẫn là những người lao động trực tiếp: trực tiếp quản lý doanh nghiệp, trực tiếp lao động sản xuất một phần nào đó để làm ra hàng hóa, nhằm làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Những người chủ doanh nghiệp như vậy thực chất chỉ là những tiểu chủ ở những mức độ khác nhau, trình độ khác nhau. Cho nên, theo chúng tôi, ở nước ta hiện nay không nên dùng thuật ngữ kinh tế tư bản tư nhân, mà chỉ nên dùng thuật ngữ kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần mà không có cổ đông là Nhà nước… Bởi vì, trên đất nước ta đã có chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có cả thành phần cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư nhân.
Trong nền kinh tế có chế độ hợp tác theo định hướng XHCN, mọi thành phần kinh tế làm ăn hợp pháp đều góp phần xây dựng CNXH ở những mức độ khác nhau, đều nằm trong quan hệ liên kết, hợp tác nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Điều đó phù hợp với luận đề Mácxít rất cơ bản: các hình thức kinh tế tư hữu nhỏ không bao giờ là một phương thức sản xuất độc lập; tính chất của nó bị quy định bởi tính chất của quan hệ sản xuất (hay chế độ sở hữu) thống trị trong phương thức sản xuất nhất định.
Từ quan điểm cho rằng nền kinh tế mới là nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tất yếu chúng ta thừa nhận rằng mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều nằm trong liên minh nhân dân cách mạng, trong chế độ hợp tác do Đảng lãnh đạo; Đảng phải bao gồm những người tiên tiến, tích cực cả về kinh tế và chính trị của tất cả các thành phần kinh tế. Đảng kết nạp vào đội ngũ của mình những người tiên phong ở mọi thành phần, những người lao động làm ăn chân chính và có tác động tích cực trong việc vận động tổ chức quần chúng tiến quân vào mặt trận kinh tế. Do vậy, Đảng không nên tuyên bố là không kết nạp vào Đảng, hoặc đưa ra khỏi Đảng những ai bỏ nhiều vốn kinh doanh và sử dụng nhiều lao động. Nhưng Đảng không kết nạp vào tổ chức của mình những nhà tư bản sống và làm giàu chỉ dựa vào việc bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê mà không lao động.
2. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân
Ở Việt Nam hiện nay, môi trường kinh doanh cho kinh tế tư nhân đang được cải thiện. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”(3). Nhà nước Việt Nam đang có những ủng hộ mạnh mẽ và thường xuyên đối với khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều hạn chế như: chưa có quy định, thể chế rõ ràng về việc đăng ký và dùng quyền sử dụng đất đai làm tài sản thế chấp hoặc góp vốn liên doanh; các doanh nghiệp tư nhân còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn ngân hàng; nhiều chính sách kinh tế thiếu rõ ràng hoặc thay đổi nhanh trong một thời gian ngắn làm tăng thêm rủi ro và chi phí kinh doanh, gây lãng phí nguồn lực cho doanh nghiệp; quản lý nhà nước về tài chính đối với các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn thiếu chặt chẽ, chưa có khung khổ pháp lý để duy trì hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân theo hướng minh bạch, có trách nhiệm và không mang tính độc quyền.
Thứ hai, Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ cho kinh tế tư nhân
Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế, không can thiệp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song việc đề xuất những chương trình kinh tế nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân lại là trách nhiệm của Nhà nước. Để tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế tư nhân hoạt động, ngoài sự hỗ trợ về vốn thông qua hệ thống ngân hàng, tín dụng, Nhà nước còn cần phải có những chương trình cụ thể sau:
Chương trình hỗ trợ về kỹ thuật và công nghệ
Đổi mới công nghệ chậm, thiếu thông tin chính xác, ít am hiểu về tình hình kinh tế và hoạt động kinh doanh của các bạn hàng… là những điểm yếu chính của giới kinh doanh tư nhân Việt Nam. Trong điều kiện như vậy, kinh tế tư nhân Việt Nam rất cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước về kỹ thuật, công nghệ. Sự hỗ trợ này không chỉ xuất phát từ lợi ích của cá nhân các chủ kinh doanh tư nhân mà còn là lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Nhà nước nên có những ưu đãi về thuế và tín dụng đối với những doanh nghiệp vay vốn cho mục đích đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ. Đồng thời, Nhà nước cần tạo môi trường thông thoáng trong kinh doanh trong giao dịch với nước ngoài, đặc biệt trong việc tiếp nhận vốn, vật tư của thân nhân các nhà doanh nghiệp là Việt kiều nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ, rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ của nước ta so với thế giới.
Xem thêm : Nên học võ karate hay taekwondo? Các lợi ích mà võ thuật mang lại
Chương trình đầu tư công cộng nhằm cung cấp những dịch vụ cơ sở hạ tầng về kinh tế và xã hội
Trong điều kiện kinh tế tư nhân Việt Nam hiện nay, tiềm lực vốn còn quá mỏng, quy mô của các doanh nghiệp còn nhỏ, khả năng liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, việc cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, khả năng của phần lớn doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay. Vì vậy, Nhà nước cần xác định vai trò là lực lượng chủ yếu trong việc tạo ra và cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, những nước có nền kinh tế phồn thịnh, duy trì được sự phát triển hài hòa giữa hai khu vực nhà nước và tư nhân, chính phủ làm tốt vai trò tạo dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội. Ở Việt Nam, theo điều tra của Ngân hàng Thế giới, các doanh nghiệp tư nhân ở cả thành thị và nông thôn rất cần Chính phủ có những chương trình hỗ trợ cơ bản gồm: 1) Cải thiện kết cấu hạ tầng cơ sở, đặc biệt là điện, vận tải và viễn thông; 2) Làm rõ các chính sách dài hạn (ví dụ luật pháp và các quy định); 3) Tăng cường hệ thống ngân hàng để cải thiện việc vay vốn tín dụng.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi những dịch vụ cơ sở hạ tầng về kinh tế và xã hội phải được cung cấp đầy đủ để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Xét theo ý nghĩa đó, việc cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng không phải của riêng ai, không phải chỉ có Nhà nước mới có trách nhiệm cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng, mà ngay cả kinh tế tư nhân cũng phải có trách nhiệm. Vì vậy, Nhà nước cũng nên có cơ chế để thu hút tư nhân tham gia vào cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng. Điều này sẽ có tác dụng bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư cho xã hội và giảm bớt gánh nặng về vốn cho Nhà nước; mặt khác sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, khuyến khích nâng cao hiệu quả và chất lượng của dịch vụ cơ sở hạ tầng.
Hỗ trợ về giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức kinh doanh và năng lực quản lý… của chủ doanh nghiệp và những người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân
Năng động, quyết đoán, dám làm là đặc trưng của các chủ kinh doanh tư nhân. Tuy nhiên, những kiến thức về kinh doanh, về quản lý và luật pháp kinh tế, về quyền lợi và trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp và người lao động còn ở mức hạn chế. Vì vậy, Nhà nước cần có chương trình đào tạo, hỗ trợ doanh nghiệp nắm vững được những kiến thức cần thiết. Chỉ trên cơ sở trình độ, năng lực của chủ doanh nghiệp và người lao động được nâng cao, kinh tế tư nhân Việt Nam mới có điều kiện tham gia một cách có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển chung của nền kinh tế quốc dân, vào quá trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Giúp đỡ kinh tế tư nhân tháo gỡ những khó khăn về mặt bằng trong sản xuất kinh doanh
Tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục để sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đai mà các hộ gia đình dùng làm đất ở, đất sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, đất đang được sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã mua lại quyền sử dụng. Đồng thời, cho phép các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, được góp vốn liên doanh với nước ngoài bằng giá trị quyền sử dụng đất; hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo như quy định của pháp luật.
Thứ ba, Nhà nước phải chủ động trong việc phát triển những mối quan hệ giữa Nhà nước với tư nhân, giữa tư nhân trong nước với tư nhân nước ngoài, hướng kinh tế tư nhân phát triển theo con đường kinh tế tư bản nhà nước
Đây là ý tưởng mà V.I. Lênin nêu ra trong thời kỳ áp dụng “Chính sách kinh tế mới” để hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân vào quỹ đạo của CNXH. Theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là hình thức kinh tế trung gian cần thiết để chuyển từ quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên CNXH. Một khi đất nước còn tồn tại hàng triệu người sản xuất hàng hóa nhỏ thì sự phục hồi những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa là không tránh khỏi; một khi những quan hệ ấy đã phục hồi rồi thì chính sách hợp lý nhất, đúng đắn nhất và hoàn toàn có thể thực hiện được là hướng nó đi theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đó là chủ nghĩa tư bản mà Nhà nước có thể điều tiết và kiểm soát được, nó ở một trình độ cao hơn so với kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, cao hơn cả kinh tế tư bản tư nhân và gần với CNXH, nó là cái không đáng sợ, là “ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội”.
Quan hệ hợp doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân thực chất là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nó chính là cơ chế để thông qua đó, Nhà nước có thể định hướng sự phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội mà Nhà nước đề ra là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy vậy, theo chúng tôi, kinh tế tư nhân trong nước vẫn là nội lực của nền kinh tế, là lực lượng kinh tế của dân tộc. Vì vậy, có thể hiện tại quan hệ hợp doanh với tư nhân trong nước chưa đem lại hiệu quả trực tiếp, song để phát huy nội lực và vì lợi ích lâu dài của nền kinh tế dân tộc, Nhà nước nên chủ động tạo ra cơ chế để thúc đẩy quan hệ hợp doanh với tư nhân trong nước, giống như Nhà nước đã có luật pháp và ưu đãi thông thoáng trong việc phát triển quan hệ hợp doanh với tư nhân nước ngoài.
Bên cạnh việc tạo ra cơ chế để phát triển quan hệ hợp doanh giữa Nhà nước với tư nhân trong nước, Nhà nước cũng nên tạo ra cơ chế để thúc đẩy quan hệ hợp doanh giữa tư nhân trong nước với tư nhân nước ngoài. Mặc dù quan hệ này về mặt pháp lý đã được Nhà nước cho phép, song trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn tham gia khoảng trên 90% trong tổng số các dự án đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam với khoảng 95% tổng số vốn, còn các doanh nghiệp và công ty tư nhân chỉ tham gia chưa đầy 10% số dự án và với chưa đầy 5% tổng số vốn.
Thứ tư, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân
Để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân khắc phục các khó khăn về vốn, cần xóa bỏ tình trạng đối xử không bình đẳng trên thực tế trong vay vốn giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế tín dụng và đảm bảo tiền vay để đáp ứng các yêu cầu phát triển của kinh tế tư nhân, phù hợp với thực trạng xã hội và thị trường.
Xem thêm : Địa điểm cấp mới, đổi, làm lại thẻ CCCD gắn chip ở đâu?
Cơ chế tín dụng và đảm bảo tiền vay cần được bổ sung một số nội dung sau:
+ Bổ sung quyền sử dụng đất đai là tài sản bảo đảm tín dụng. Các vấn đề thế chấp về giá trị quyền sử dụng đất, phạm vi bảo đảm tiền vay, hợp đồng bảo quản tiền vay, quy định bảo quản tiền vay hình thành từ vốn vay cũng cần được bổ sung, xem xét cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
+ Xúc tiến nhanh việc hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (không phân biệt thành phần kinh tế) thành lập tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Thiết lập và tăng cường mối quan hệ giữa các doanh nghiệp tư nhân với các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức (vay người thân, vay của người lao động trong doanh nghiệp, vay của các doanh nghiệp khác…).
+ Xúc tiến nhanh việc hình thành thị trường chứng khoán phi tập trung, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân huy động vốn trên thị trường chứng khoán phi tập trung.
+ Đẩy mạnh hoạt động cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp tư nhân thông qua việc đa dạng hóa hoạt động cho thuê; tăng cường hoạt động tư vấn cho các doanh nghiệp các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Thứ năm, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân
Đối với các doanh nghiệp tư nhân, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước không chỉ là để ngăn chặn các biểu hiện sai phạm trong kinh doanh mà còn để bảo vệ các doanh nghiệp làm ăn chân chính, bảo đảm cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tự do kinh doanh hợp pháp.
Mối quan hệ giữa kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường là mối quan hệ song hành, gắn bó chặt chẽ với nhau, chế định lẫn nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Kinh tế tư nhân là một động lực phát triển của kinh tế thị trường và ngược lại, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Một khi Đảng và Nhà nước ta đã quyết định lựa chọn mô hình kinh tế thị trường để xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước thì phải chấp nhận và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển.
Những kết quả trong hơn 30 năm đổi mới mà chúng ta đã đạt được về tăng trưởng, về tạo việc làm và nâng cao thu nhập, về sự chuyển mình của cả nền kinh tế theo hướng hội nhập, hiện đại hóa,… chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng.
Thời gian qua, kinh tế tư nhân Việt Nam, mặc dù sự phát triển chưa phải là mạnh, song cũng đã cho thấy đây là một khu vực chứa đựng nhiều tiềm năng. Vì vậy cần phải nhất quán với chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhất quán với những quan điểm, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân mà Đảng và Nhà nước đã ban hành. Chỉ có như vậy, chính sách kinh tế nhiều thành phần mới đi vào cuộc sống và chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu của chính sách ấy là giải phóng mọi năng lực sản xuất và khai thác các tiềm năng kinh tế phát triển đất nước.
___________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2019
(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.57-58, 4-42.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.25.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp