Soạn bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lý – Ngữ Văn 12

1. Tìm hiểu đề và lập dàn ý Nghị luận về một tư tưởng đạo lý

Đề bài: Anh (chị) hãy đưa ra câu trả lời cho câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu:

“Ôi ! Sống đẹp là thế nào, hỡi bạn”

(Một khúc ca)

1.1. Tìm hiểu đề

Câu thơ ở trên của nhà thơ Tố Hữu đang muốn hướng tới vấn đề nghị luận: “Lối sống đẹp”

“Sống đẹp” có thể hiểu là:

  • Một lối sống mà có những lí tưởng sống đúng đắn, cao cả, phù hợp với xu hướng hay thời đại, có thể xác định được những vai trò, trách nhiệm của bản thân đối với chính bản thân mình hoặc xã hội.
  • Người mà có đời sống tình cảm chuẩn mực, phong phú nhưng lại hài hoà đối với tất cả mọi người xung quanh.
  • Có những hành động và những cử chỉ đúng đắn, chuẩn mực trong xã hội.

Để có thể có một lối sống đẹp thì mỗi con người chúng ta cần phải rèn luyện chuyên cần những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người:

  • Chăm chỉ, tích cực trong học tập, cần có một thái độ khiêm tốn và tinh thần học hỏi cao với những điều mới mẻ, biết hình thành và nuôi dưỡng những hoài bão, những ước mơ của bản thân mình đặt ra.
  • Mỗi cá nhân chúng ta cần phải thường xuyên có thói quen tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, đức tính bao dung, độ lượng, có lòng thương yêu giữa con người với nhau.

Những thao tác trong quá trình lập luận thì chúng ta cần sử dụng:

  • Giải thích.
  • Phân tích.
  • Chứng minh.
  • Bình luận.

Ta cần lựa chọn và sử dụng nhiều hơn những tư liệu có trong lĩnh vực ở đời sống thực tế và cả ở trong văn học.

1.2. Lập dàn ý

Dưới đây, VUIHOC sẽ hướng dẫn một cách ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ những yêu cầu trong mỗi phần bài cho một bài văn nghị luận:

a) Mở bài

– Nêu ra được những vấn đề cần trong bài nghị luận (diễn dịch, quy nạp, phản đề) .

– Trích dẫn được nguyên văn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu.

– Nêu ra được quan điểm của cá nhân về vấn đề được nêu ra trước đó.

b) Thân bài

– Giải thích được thế nào là “sống đẹp”, nêu ra được khái niệm về sống đẹp:

⇒ Phân tích được những khía cạnh về những biểu hiện trong một lối sống đẹp và phải giới thiệu lên được một số tấm gương sống đẹp ở trong đời sống xã hội thực tế hay cả trong những tác phẩm văn học. Có thể đưa ra dẫn chứng: “Từ ấy”của nhà thơ Tố Hữu, “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” hay “Sống là cho chết cũng là cho” có trong tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu, những tấm gương về đức hy sinh cao cả vì lý tưởng mạnh của Phan Đình Giót, Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu.

– Xác định được chính xác những phương hướng và cần đưa ra những biện pháp để có thể cố gắng có một lối sống đẹp như: thường xuyên tu dưỡng về mặt tư tưởng và đạo đức, rèn luyện một lối sống phù hợp với xu thế nhưng vẫn phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội.

– Lên án và phê phán những quan niệm cổ hủ không còn phù hợp với xã hội hiện nay và lối sống không đẹp còn tồn tại trong đời sống xã hội: lối sống ích kỷ chỉ nghĩ cho mình, buông thả thờ ơ với bản thân và xung quanh, có những suy nghĩ và hành động đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức ở trong xã hội .

c) Kết bài

– Khẳng định lại thêm một lần nữa về những ý nghĩa của một lối sống đẹp.

– Phản đề, liên hệ thực tế và rút ra được bài học cho bản thân.

2. Kiến thức trọng tâm bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lý

2.1. Khái niệm Nghị luận về một tư tưởng đạo lý

Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý được định nghĩa là quá trình phối hợp những thao tác lập luận để có thể làm rõ được những vấn đề về tư tưởng, đạo lý ở trong cuộc sống.

Tư tưởng, đạo lý ở trong cuộc sống bao gồm những vấn đề:

  • Lí tưởng (lẽ sống)
  • Cách sống
  • Hoạt động sống
  • Các mối quan hệ trong cuộc sống giữa con người với con người (cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em hay kể cả những người thân thuộc khác). Ở ngoài xã hội lại có thêm các kiểu quan hệ trên, dưới, đơn vị, tình làng nghĩa xóm, thầy trò, bạn bè…​

2.2. Yêu cầu khi làm dạng bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lý

  • Người làm cần hiểu được vấn đề cần nghị luận là gì.
  • Từ những vấn đề mà người viết đã xác định trước đó, cần phải tiếp tục phân tích, chứng minh được những biểu hiện cụ thể của những vấn đề đó, thậm chí có cả so sánh, bàn bạc hay bác bỏ… nghĩa là cần phải biết áp dụng được nhiều thao tác lập luận với nhau.
  • Cần phải biết rút ra được ý nghĩa của vấn đề.

a. Bố cục: Một bài văn nghị luận về tư tưởng đạo lí bao gồm 3 phần cơ bản: mở bài, thân bài, kết bài.

b. Các yêu cầu khi tiến hành ở phần thân bài :

  • Giải thích được khái niệm của đề bài đưa ra.
  • Giải thích và chứng minh được vấn đề mấu chốt của đề bài đặt ra.
  • Phân tích ra được những mặt đúng của vấn đề, bác bỏ đi những biểu hiện sai lệch có liên quan tới vấn đề đang được bàn luận .
  • Nêu bật lên ý nghĩa của bài học.

Khi diễn đạt cần phải chuẩn xác và mạch lạc có thể áp dụng một số những phép tu từ và các yếu tố biểu cảm nhưng cần phải phù hợp.

Ghi nhớ:

Bài nghị luận về một tư tưởng hay đạo lý sẽ thường có một trong số nội dung sau:

  • Giới thiệu, giải thích về vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận
  • Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận.
  • Nêu lên được ý nghĩa, rút bài học về nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lí.

Diễn đạt cần phải chuẩn xác, mạch lạc, có thể sử dụng một số những phép tu từ và yếu tố biểu cảm nhưng lại cần phải có chừng mực và phù hợp.

2.3. Các bước lập dàn ý dạng bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lý

Bước 1: Giải thích vấn đề tư tưởng, đạo lí

Chúng ta cần phải giải thích được ý nghĩa các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có trong văn bản); rút ra được ý nghĩa chung nhất mà vấn đề tư tưởng, đạo lý đang bàn luận có đề cập tới; đưa ra được quan điểm của tác giả thông qua câu nói (thường sẽ dành cho những đề bài có tư tưởng, đạo lý được thể hiện một cách gián tiếp thông qua những câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ…).

==> Đầu tiên, chúng ta cần giải thích những từ mang tính trọng tâm, sau đó mới giải thích cả câu nói.

Bước 2: Bàn luận

Phân tích và chứng minh được những mặt đúng của vấn đề tư tưởng, đạo lý (thường sẽ trả lời cho câu hỏi tại sao nói như thế? Dùng những dẫn chứng có trong cuộc sống xã hội để chứng minh điều này. Từ đó sẽ đưa ra được tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đang bàn luận trên đối với đời sống thực tế xã hội).

Bác bỏ (phê phán) những biểu hiện có dấu hiệu sai lệch và có liên quan tới vấn đề: bác bỏ đi những biểu hiện có dấu hiệu sai lệch và có liên quan đến tư tưởng, đạo lý vì có những tư tưởng, đạo lý đúng ở trong thời đại hiện nay nhưng lại vẫn còn hạn chế trong thời đại khác, tư tưởng có đúng trong hoàn cảnh này nhưng có thể còn chưa thích hợp ở trong hoàn cảnh khác; đưa ra những dẫn chứng minh họa cho phản biện của mình.

Bước 3: Mở rộng

  • Mở rộng vấn đề bằng cách giải thích cùng với chứng minh.
  • Mở rộng vấn đề bằng cách khai thác sâu thêm vấn đề.
  • Mở rộng vấn đề bằng cách lật ngược lại vấn đề: phủ nhận hoặc công nhận vấn đề đang nêu, cần đưa ra một lý lẽ hợp lý để khẳng định vấn đề đúng hay sai.

Trong những bước mở rộng, tuỳ vào từng trường hợp cùng với khả năng của bản thân mà hãy áp dụng cho hợp lý, không nên quá cứng nhắc.

Bước 4: Nêu ý nghĩa, rút ra được bài học nhận thức và hành động

Đây là một vấn đề cơ bản trong một bài văn nghị luận bởi mục đích của việc nghị luận đó chính là rút ra những kết luận đúng nhất để thuyết phục được người đọc áp dụng vấn đề tư tưởng này vào thực tiễn đời sống.

Đăng ký ngay để được thầy cô tổng hợp kiến thức trọn bộ kiến thức Ngữ văn ôn thi tốt nghiệp THPT

3. Soạn bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lý: Luyện tập trả lời câu hỏi

3.1. Câu 1 (Trang 21 SGK Ngữ Văn 12 tập 1)

Đọc văn bản của Gi. Nê-ru và trả lời các yêu cầu:

[…] Văn hóa – đó có phải là sự phát triển nội tại bên trong một con người hay không? Tất nhiên rồi. Đó có phải là cách ứng xử của anh ta với người khác không? Nhất định là phải. Đó có phải là khả năng hiểu người khác không? Tôi cho là thế. Đó có phải là khả năng làm cho người khác hiểu mình không? Tôi cho là như vậy. Văn hóa nghĩa là tất cả những cái đó. Một người không thể hiểu được quan điểm của người khác tức là trong chừng mực nào đó anh ta có hạn chế về trí tuệ và văn hóa.

[…] Một trí tuệ có văn hóa, có cội nguồn từ chính nó, cần phải có những cánh cửa mở rộng. Nó cần có khả năng hiểu được đầy đủ quan điểm của người khác, mặc dù không phải bao giờ cũng đồng ý với quan điểm đó. Vấn đề đồng ý chỉ nảy sinh khi anh ta hiểu được sự việc. Nếu không, đó chỉ là sự cự tuyệt mù quáng, quyết không thể là cách tiếp cận có văn hóa với bất kì vấn đề gì.

Đến đây, tôi sẽ để các bạn quyết định lấy văn hóa và sự khôn ngoan thật sự là gì. Chúng ta tiến bộ nhờ học tập, nhờ kiến thức và kinh nghiệm. Đến lúc tích lũy được một khối lượng khổng lồ những thứ đó, chúng ta lại trở nên không tài nào biết được mình đang ở đâu! Chúng ta bị tràn ngập bởi mọi thứ và không hiểu sao chúng ta lại có cảm giác rằng tất cả mọi thứ đó cộng lại cũng chưa hẳn đã nhất thiết đại diện cho sự phát triển của trí khôn con người…Trong tương lai sắp tới, liệu chúng ta có thể kết hợp tất cả sự phát triển của khoa học, của tri thức và những tiến bộ của con người với sự khôn ngoan thật sự hay không? Tôi không biết. Đó là một cuộc chạy đua giữa các lực lượng khác nhau. Tôi nhớ đến một người rất thông thái – một nhà thơ Hi Lạp nổi tiếng, đã nói:

“Sự khôn ngoan là gì,

Chính là sự cố gắng của con người,

Vượt lên sợ hãi,

Vượt lên hận thù,

Sống tự do,

Thở hít khí trời và biết chờ đợi,

Dành trọn tình yêu cho những gì tươi đẹp”

(Gi. Nê-ru, theo Nhân dân chủ nhật, tháng 12-1997)

Câu hỏi

a) Vấn đề mà Gi. Nu-rê đưa ra nghị luận là gì? Căn cứ vào nội dung cơ bản của vấn đề ấy, hãy đặt tên cho văn bản.

b) Để nghị luận, tác giả đã sử dụng những thao tác lập luận nào? Nêu ví dụ.

c) Cách diễn đạt trong văn bản trên có gì đặc sắc?

Trả lời:

a) Vấn đề mà Nê – Ru muôn đưa ra để nghị luận đó là văn hoá và những biểu hiện ở con người. Căn cứ vào nội dung cơ bản trên của vấn đề ấy, chúng ta sẽ đặt tên cho văn bản là: Văn hoá con người.

b) Tác giả đã sử dụng những thao tác lập luận đó là: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận.

  • Đoạn văn từ đầu cho tới “hạn chế về trí tuệ văn hoá” áp dụng thao tác giải thích + khẳng định vấn đề (chứng minh).

  • Những phần đoạn còn lại đã áp dụng thao tác phân tích, bình luận.

c) Nét đặc sắc có trong cách diễn đạt của văn bản ở trên đó là:

  • Đưa ra nhiều câu hỏi rồi sau đó trả lời, câu nọ nối tiếp với câu kia sẽ thu hút được sự chú ý từ phía người đọc.

  • Cách viết của đoạn văn hướng tới người đọc và hình thức đối thoại trực tiếp với người đọc: “Tôi sẽ để các bạn.”, ” Chúng ta tiến bộ nhờ học tập.” ” Chúng ta bị tràn ngập bởi mọi thứ.”…

  • Ở trong phần cuối của văn bản tác giả đã trích dẫn đoạn thơ đã gây ấn tượng cho người đọc, hấp dẫn, dễ nhớ.

3.2. Câu 2 (Trang 22 SGK Ngữ Văn 12 tập 1)

Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi đã từng nói: “Lí tưởng chính là ngọn đèn chỉ đường…

Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi đã nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Nếu như không có lí tưởng thì sẽ không có những phương hướng kiên định, mà khi đã không có phương hướng thì sẽ không có cuộc sống”. Các bạn hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lí tưởng trong cuộc sống của con người chúng ta.

Trả lời:

Giới thiệu vấn đề được bàn luận:

Người ta đã từng nói nói, lạc rừng thì cứ nhìn vào sao Bắc Đẩu mà đi, bởi vì sao Bắc Đẩu sẽ chỉ có ta được đường đi đúng nhất. Trong cuộc sống của mỗi con người, lý tưởng sẽ được ví như sao Bắc Đẩu vậy. Về vấn đề này, nhà văn L.Tôn – xtôi cũng đã từng nói rằng: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”.

Giải quyết vấn đề:

– Giải thích:

Giải thích được các khái niệm chính: “lí tưởng, cuộc sống”, ý nghĩa chính trong câu nói của nhà văn L. Tôn-xtoi. “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường” Đưa ra được phương hướng chính xác cho cuộc sống của những thanh niên trong tương lai.

=> Thanh niên cần phải sống và có lí tưởng, biết cách đề ra những mục tiêu cho bản thân để phấn đấu nhiều hơn và vươn tới ước mơ…

– Phân tích:

Vai trò là vạch đường, dẫn đường và chỉ hướng của lý tưởng. Lý tưởng đã được ví như một ngọn đèn có thể chỉ đường cho mỗi con người trên hành trình sống của họ: Cuộc sống đó sẽ chỉ có được khi con người ta tồn tại lý tưởng và có một phương hướng kiên định. Con người sẽ luôn muốn có cuộc sống đích thực thì sẽ không thể không có lý tưởng sống.

– Chứng minh:

Lý tưởng của người Việt Nam thông qua những năm tháng chống giặc Mỹ đó là đấu tranh giành độc lập và thống nhất miền Nam và đem lại đất nước hoà bình.

– Bình luận:

Lí tưởng, là yếu tố quan trọng làm nên cuộc sống con người. Người không có lý tưởng sẽ không thể lập trình cho cuộc đời mình, không có phương hướng, không có kế hoạch cho đời mình.

“Người nào không biết ngày mai mình làm gì thì người đó là kẻ khốn khổ” ( M. Gor – ki).

– Khẳng định:

+ Thái độ: tán thành, nhận thức được vai trò quan trọng của lý tưởng

+ Lý tưởng của cá nhân và con đường phấn đấu cho lý tưởng.

+ Nỗ lực phấn đấu, học tập, tu dưỡng, hành động đúng đắn để đạt được những thành công cho bản thân.

Kết thúc vấn đề: Rút ra bài học cho bản thân, hoàn thiện nhân cách để sống tốt hơn, có ích hơn cho xã hội …

Trên đây, VUIHOC đã cung cấp cho các bạn cách soạn bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lý và hướng dẫn giải một số những câu hỏi luyện tập trong sách giáo khoa. Ngoài ra, để học nhiều hơn các kiến thức các môn học của THPT nói chung cũng như tham khảo các bài soạn văn 12 thì các em hãy truy cập vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô VUIHOC ngay bây giờ nhé!

>>> Xem thêm:

Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam

Soạn bài Tuyên ngôn độc lập