*Bài viết được biên dịch bởi đội ngũ thực tập sinh công ty dịch thuật Master
Liên Hợp Quốc là tổ chức thế giới tượng trưng cho sự đoàn kết, hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia. Như chúng ta đã biết, Liên Hợp Quốc, gọi tắt là UN, được thành lập vào năm 1945 sau Thế chiến II. Kể từ khi thành lập, Liên Hợp Quốc đã tìm cách đẩy mạnh an ninh, luật pháp quốc tế, bảo vệ nhân quyền, phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, đặc biệt chú trọng đến tiến bộ xã hội tại 193 quốc gia thành viên.
Với những mục tiêu to lớn như vậy trong danh sách của mình, giao tiếp hiệu quả là bước đầu tiên để thiết lập đối thoại giữa các quốc gia. Ngôn ngữ là rào cản đầu tiên mà các quốc gia hy vọng là loại bỏ đươc nó trước bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ.
Bạn đang xem: Các ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc
Chủ nghĩa đa ngôn ngữ trong Liên Hợp Quốc:
Là một phần của việc thiết lập đối thoại giữa các quốc gia, Liên Hợp Quốc có sáu ngôn ngữ chính thức được chỉ định để điều phối tất cả các quốc gia thành viên. Các ngôn ngữ này phục vụ như một phương tiện trao đổi trong các cuộc họp chính thức, trong đó các bài phát biểu được diễn giải đồng thời sang tất cả sáu ngôn ngữ chính thức và được chuyển tiếp tới các đại biểu. Hơn nữa, tất cả các tài liệu do Liên Hợp Quốc phát hành được in bằng cả sáu ngôn ngữ.
Chủ nghĩa đa ngôn ngữ giúp cho Liên Hợp Quốc có một số lợi thế quan trọng. Nó cho phép các quốc gia Liên Hợp Quốc với các nền văn hóa khác nhau có thể giao tiếp được với nhau. Nó hoạt động như một lực lượng thống nhất, cho phép các quốc gia dễ dàng trao đổi thông tin với nhau. Điều này đảm bảo làm tăng sự tham gia các hoạt động từ tất cả các quốc gia, nó như một công cụ thúc đẩy sự khoan dung và chấp thuận, cũng như mở đường cho một sự tăng cường tham gia của các quốc gia và đạt được nhiều kết quả tốt hơn.
6 ngôn ngữ được chọn:
Hãy cùng xem xét vị trí của từng ngôn ngữ trong số sáu ngôn ngữ được chọn trong Liên Hợp Quốc
Tiếng Anh:
- Ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ làm việc của Liên Hợp Quốc (từ ngày 1 tháng 2 năm 1946)
- Ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ làm việc của Hội đồng Bảo an (từ ngày 24 tháng 6 năm 1946)
Tiếng Trung phổ thông:
- Ngôn ngữ chính thức của Liên hợp quốc (trừ Tòa án Công lý Quốc tế) (kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1946)
- Ngôn ngữ chính thức của Hội đồng Bảo an (từ ngày 24 tháng 6 năm 1946)
- Ngôn ngữ làm việc của Đại hội đồng (từ ngày 18 tháng 12 năm 1973)
- Ngôn ngữ làm việc của Hội đồng Bảo an (kể từ ngày 17 tháng 1 năm 1974)
Tiếng Ả rập:
- Ngôn ngữ chính thức và làm việc của Đại hội đồng (kể từ ngày 18 tháng 12 năm 1973)
- Ngôn ngữ chính thức và hoạt động của các cơ quan con của Đại hội đồng (kể từ ngày 17 tháng 12 năm 1980)
- Ngôn ngữ chính thức của Hội đồng Kinh tế và Xã hội (từ ngày 15 tháng 4 năm 1982)
- Ngôn ngữ chính thức và hoạt động của Hội đồng Bảo an (kể từ ngày 21 tháng 12 năm 1982)
Tiếng Tây Ban Nha:
- Ngôn ngữ chính thức của Liên hợp quốc (trừ ICJ) (kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1946)
- Ngôn ngữ chính thức của Hội đồng Bảo an (từ ngày 24 tháng 6 năm 1946)
- Ngôn ngữ làm việc của Đại hội đồng (từ ngày 7 tháng 12 năm 1948)
- Ngôn ngữ làm việc của Hội đồng Bảo an (từ ngày 22 tháng 1 năm 1969)
Tiếng Nga:
- Ngôn ngữ chính thức của Liên hợp quốc (trừ ICJ) (kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1946)
- Ngôn ngữ chính thức của Hội đồng Bảo an (từ ngày 24 tháng 6 năm 1946)
- Ngôn ngữ làm việc của Đại hội đồng (từ ngày 21 tháng 12 năm 1968)
- Ngôn ngữ làm việc của Hội đồng Bảo an (từ ngày 22 tháng 1 năm 1969)
Tiếng Pháp:
- Ngôn ngữ chính thức và làm việc của Liên hợp quốc (trừ ICJ) (kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1946)
- Ngôn ngữ chính thức và hoạt động của Hội đồng Bảo an (kể từ ngày 24 tháng 6 năm 1946)
Đa số chiếm phần lớn:
Xem thêm : Hệ tuần hoàn đơn và hệ tuần hoàn kép khác nhau như thế nào?
Được nói như một ngôn ngữ chính hoặc ngôn ngữ phụ, phần lớn dân số thế giới sử dụng bất kỳ ngôn ngữ nào trong sáu ngôn ngữ này để thiết lập giao tiếp. Trên thực tế, những ngôn ngữ này được gần 2,8 tỷ người trên thế giới sử dụng, tức là gần một nửa dân số thế giới.
Vậy còn nửa kia của thế giới thì sao?
Nghịch lý trong ngôn ngữ:
Chúng ta biết rằng một nửa thế giới hiểu các ngôn ngữ này và thế giới rất đa dạng về mặt địa lý đến mức hầu hết mọi người sẽ nói ít nhất một trong số chúng, phải không?
Không hẳn vậy. Khi bạn nhìn xuống danh sách tổng người nói, một nghịch lý thú vị được nhìn thấy. Chưa đến một nửa thế giới có thể giao tiếp bằng các ngôn ngữ này, số ít có thể hiểu các ngôn ngữ này, trong khi chỉ một số nhỏ trong số họ có thể hiểu các tài liệu bằng các ngôn ngữ này.
Với hơn một nửa thế giới vẫn chưa kết thúc, đã đến lúc Liên Hợp Quốc bao gồm nhiều ngôn ngữ hơn trong danh mục ngôn ngữ của mình.
Khả năng trong tương lai:
Xem thêm : Thời hạn nộp hồ sơ thai sản đối với NLĐ đang đi làm và đã nghỉ việc
Những người nói tiếng Nhật có thể tự hỏi tại sao ngôn ngữ của họ không có trong danh sách, giống như những người nói tiếng Bồ Đào Nha hoặc tiếng Ý.
Vậy, danh sách ngôn ngữ trong tương lai của Liên Hợp Quốc sẽ như thế nào?
Tiếng Hindi có khả năng lọt vào danh sách các ngôn ngữ của Liên Hợp Quốc do số lượng người nói nó rất nhiều. Với số lượng người nói lớn nhất thứ năm trên thế giới, lý do duy nhất khiến nó không được đưa vào trong các ngôn ngữ chính thức là khu vực biệt lập nơi người ta nói ngôn ngữ Hindi là tiểu lục địa.
Tiếng Bengal có 250 triệu người nói trên toàn thế giới và là một ứng cử viên có thể cho vào danh sách các ngôn ngữ chính thức mới.
Tiếng Bồ Đào Nha đa dạng về địa lý hơn tiếng Nga hoặc tiếng Bengal. Đây là ngôn ngữ đứng thứ sáu trên thế giới được nói như là ngôn ngữ bản địa và là ngôn ngữ La Mã được nói nhiều đứng thứ hai trên thế giới sau tiếng Tây Ban Nha.
Thế giới đang tiếp tục mở rộng, với các ngôn ngữ mới được giữ vững khi luật nhập cư xoa dịu giữa các quốc gia. Thực sự có lập trường bao gồm nhiều ngôn ngữ hơn, vì lợi ích tốt nhất của Liên Hợp Quốc để đạt được mục tiêu thiết lập đối thoại và giao tiếp toàn cầu.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp