Nhà nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào? Trải qua bao nhiêu đời vua?

Nhà Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam, tồn tại 143 năm với 13 đời vua. Trong đó, thông tin về sự thành lập triều Nguyễn cũng là một trong những yếu tố mang nhiều dấu ấn và giá trị. Hãy cùng ACC GROUP ngược dòng lịch sử để hiểu rõ hơn về sự ra đời của triều đại này nhé!

1. Nhà Nguyễn được thành lập vào năm nào?

Nhà Nguyễn là nhà nước quân chủ cuối cùng ở Việt Nam, do các vua nhà Nguyễn thuộc dòng Nguyễn Phúc sáng lập. Tổ tiên của các vua Nguyễn là chúa Nguyễn thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) là hoàng đế đầu tiên của họ Nguyễn, ông xưng đế năm 1802. Nguyễn Phúc Ánh là cháu nội của chúa Nguyễn Phúc Khoát – vị chúa Nguyễn cuối cùng của nội triều. Sau khi họ Nguyễn bị quân Tây Sơn – Nguyễn Huệ lật đổ vào năm 1977, ông bỏ trốn và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn. Nguyễn Ánh cầu cứu quân Pháp, quân Thanh suy yếu Tây Sơn. Sau khi vua Quang Trung đột ngột qua đời, Nguyễn Ánh bám trụ ở Nam Hà và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn, lên ngôi, lập ra triều Nguyễn với tên nước là Việt Nam, chọn Phú Xuân. Huế) làm kinh đô. Triều Nguyễn là triều đại ghi dấu nhiều thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, phải kể đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào giữa thế kỷ XIX.

2. Vương triều Nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào?

Đó là một bối cảnh rất đặc thù, triều Nguyễn đã trải qua nhiều biến cố trong suốt quá trình tồn tại của mình. Nguyễn Ánh chạy trốn trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn và đã nằm liệt giường 25 năm, nghĩ cách báo thù cho quân Tây Sơn và đánh bại nghĩa quân Tây Sơn. Sau khi vua Quang Trung băng hà, nhà Tây Sơn dần suy yếu, nhân cơ hội này Nguyễn Ánh huy động lực lượng tấn công nhà Tây Sơn. Năm 1802, triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long và dời đô vào Phú Xuân (Huế). Triều đình nhà Nguyễn đã huy động hàng chục vạn dân, binh phục vụ cho việc xây dựng kinh thành Huế. Các vật liệu như đá, gỗ, vôi, gạch ngói từ mọi miền đất nước được đưa về đây. Sau hàng chục năm xây dựng và nhiều lần trùng tu, một tòa thành đồ sộ, rộng lớn, dài 2km đã hiện ra bên bờ sông Hương. Thời Nguyễn, các vua không đặt ngôi vị hoàng hậu, nhường chức tể tướng, trực tiếp điều hành mọi công việc nội chính quan trọng từ trung ương đến địa phương, từ việc xây dựng pháp luật đến việc điều hành, tổ chức lễ hội. . các quan trong triều, việc cử binh đi xa theo sự chỉ đạo trực tiếp của các đại thần,… đều do vua quyết định. Điều này cho thấy các vua Nguyễn không muốn chia sẻ quyền lực với bất kỳ ai.

3. Các vua triều Nguyễn

3.1. Vua Gia Long

Triều đại nhà Nguyễn kéo dài đến năm 1945, tức là 143 năm với 13 đời vua, mở đầu là vua Nguyễn Phúc Ánh, hiệu là Gia Long, lấy quốc hiệu là Việt Nam. Vua Gia Long là con thứ ba của Nguyễn Phúc Côn và Nguyễn Thị Hoan. Là vị vua sáng lập triều Nguyễn, Gia Long đã phải quyết định rất nhiều việc để đặt nền móng cho vương triều với vùng cai trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lạm quyền, ngay từ đầu vua đã bãi bỏ chức tể tướng, trong hậu cung không lập hoàng hậu, chỉ lập hoàng hậu và các phi tần. Về đối ngoại, vua Gia Long một mặt giành được sự ủng hộ và thần phục của nhà Thanh, mặt khác tạo quan hệ cấp cao với Chân Lạp và Ai Lao. Đối với các nước phương Tây, việc dựa vào sức mình để giành chiến thắng đã trở nên nguội lạnh. Ông có hai bà vợ chính: bà thứ nhất là Thừa Thiên Cao tổ, hoàng hậu nhà Tống, con gái quận công của vua Tống Phúc Khuông. Thứ hai là Thuận Thiên Cao hoàng hậu nhà Trần, con gái Thọ Quốc công Trần Hưng Dật. Về sau, Gia Long có tổng cộng 13 hoàng tử và 18 công chúa.

3.2. Vua Minh Mạng

Vua Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, là con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu. Ông là một vị vua năng động và quyết đoán, có nhiều cải cách từ nội bộ đến ngoại giao. Về đối nội, ông lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở kinh đô Huế, bãi bỏ các phủ ở Bắc thành và Gia Định thành, chuyển kinh thành thành tỉnh, củng cố chế độ tham quan ở miền núi. Về đối ngoại, ông đổi quốc hiệu từ Việt Nam thành Đại Nam và có nhiều sách lược, hành động đưa Đại Nam trở thành một nước hùng mạnh. Nhờ vậy, lãnh thổ nước ta dưới thời vua Minh Mạng rộng lớn hơn tất cả các đời vua trước. Trị vì 21 năm, vua Minh Mạng quán xuyến công việc hàng ngày, mọi chỉ dụ, chiếu chỉ, tố cáo đều do vua đích thân soạn thảo với số lượng lớn. Không chỉ vậy, lúc rảnh rỗi nhà vua còn làm thơ, và những hậu duệ cuối cùng của vua Minh Mạng cũng là một số đáng nể. Theo đó, con số chính xác về hậu duệ của ông là tổng cộng 142 người, bao gồm 78 hoàng tử và 64 hoàng hậu.

3.3. Vua Thiệu Trị

Vua Thiệu Trị là con của vua Minh Mạng và Thuận Đức Thần Phi, tên thật là Miên Tông. Anh là người hiền lành, không thích làm quan. Đồng thời, mọi việc an cư đều được tổ chức theo quy định từ thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị đều giữ nếp cũ, chỉ làm theo lời dặn của vua cha. Các quan xưa giúp Minh Mạng vẫn là trọng thần của vua Thiệu Trị. Tuy nhiên, vua Thiệu Trị trị vì không được bao lâu, tháng 9 năm Đinh Mùi, ông lâm bệnh mất, ở ngôi 7 năm, hiệu là Hiếu Tổ Chương hoàng đế, sinh được 54 người con gồm 29 hoàng thượng và 29 hoàng phi. 25 nữ hoàng.

3.4. vua Tự Đức

Vua tên húy là Thị, húy là Hoàng Hồng Nhậm, con thứ của vua Thiệu Trị. Ông sức khỏe kém, luôn phải ở trong cung Huế. Cũng chính vì lý do này mà vua ít giết người, ngày càng trở nên quan liêu, độc đoán. Nhưng mặt khác, vua Tự Đức rất thông minh và có tài văn chương. Có thể nói ông là người uyên bác nhất thời bấy giờ và là người tích cực theo Nho giáo. Tuy nhiên, vua Tự Đức không có con. Ông phải nuôi ba người con của anh trai mình là Ung Chân, Ung Kỳ và Ung Đăng chuẩn bị cho người kế vị ngôi vua tiếp theo.

3.5. vua công tước

Vua Dục Đức là con nuôi Ung Chân của vua Tự Đức. Ông là người có nhiều tính xấu bị vua cha liệt kê trong di chúc, nhưng vì lớn tuổi nhất trong ba người nên vua Tự Đức đã để lại di chúc cho Ung Chân nối gót mình. Sau đó, vào ngày đăng quang, vua Duke yêu cầu ba bộ trưởng không đọc những lời của cha mình về ông trong lễ đăng quang. Trần Tiễn Thành khi đọc đoạn này đã cố tình đọc to để không ai nghe rõ, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nổi giận đòi đọc lại. Hai ngày sau, trong buổi triều đình có đông đảo hoàng thân quốc thích, Nguyễn Văn Tường đứng lên tuyên bố phế truất Dục Đức vì các tội:

– Cắt một đoạn trong di chúc của vua cha. – Tùy tiện phái giáo sĩ đến Đế Đô. – Mặc áo lam khi để tang cha. Dục Đức bị giam trong phòng khóa kín vào ngày thứ ba lên ngôi. Sau này, khi con thứ 7 của ông là Thành Thái lên làm vua, Dục Đức được phục hồi tước vị và tôn là “Cung Tôn Huệ hoàng đế”.

3.6. Vua Hiệp Hòa

Ông tên thật là Hồng Dật, con thứ 29 của vua Thiệu Trị. Tháng 6 năm 1883, sau khi Dục Đức bị phế truất, theo ý muốn của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường và ý nguyện của Từ Dũ Hoàng Thái hậu, triều đình đã cử sứ bộ vào Kim Long đón ông về đưa vào Kinh thành. để chuẩn bị cho lễ lên ngôi vua Hiệp Hòa. Về sau vua Hiệp Hòa nhận thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cậy công nắm hết đại quyền, vua bèn bày mưu ngầm cùng hai thân cận là Hồng Phi và Trần Tiễn Thành giết Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Sự việc bại lộ, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường bàn kế luận tội Hiệp Hòa, lấy cớ nhà vua có âm mưu dựa vào Pháp để giết hai thủ hạ hàng đầu. Đồng thời bắt các quan ký vào tờ đơn phế truất Hiệp Hòa và đến điện Diên Thọ để xin ý của Thái hậu. Rốt cuộc, vua Hiệp Hòa vẫn không tránh khỏi án mạng. Làm vua được 4 tháng thì ông qua đời, được giao cho phủ Tôn Nhân an táng theo nghi thức Quốc công.

3.7. Vua Kiến Phúc

Vua Kiến Phúc hiệu là Ưng Đăng, con nuôi thứ ba của vua Tự Đức. Ông là người hiểu biết, hòa nhã, cẩn trọng trong lời nói và việc làm nên rất được vua Tự Đức yêu mến. Ngay trong di chúc, vua Tự Đức cũng bày tỏ mong muốn nhường ngôi cho Ưng Đăng nhưng do tuổi còn nhỏ nên đành phải từ bỏ. Vì vậy, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường xin lập làm Ứng Đăng vương, nhưng không ở được bao lâu thì lâm bệnh nặng qua đời. Khi đó, anh mới 15 tuổi.

3.8 Vua Hàm Nghi

Vua Hàm Nghi tên húy là Ưng Lịch, là em vua Kiến Phúc. Sau khi vua Kiến Phúc băng hà, Ưng Lịch mới 13 tuổi lên ngôi vào ngày 1 tháng 8 năm 1884. Ông là vị vua chịu nhiều gian khổ nhất nhưng cũng là vị vua có tuổi trẻ, chí lớn và được lòng dân . Vua Hàm Nghi lớn lên trong hoàn cảnh đất nước rối ren, trong nội bộ triều đình Huế lúc bấy giờ chia thành hai phe: quân phiệt và quân phiệt. Một phong trào chống lại những hành động hèn hạ của triều đình Huế nổ ra, với sự tham gia của một số sứ quân. Đêm 23/5/1885, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết – nòng cốt của phe chủ chiến tấn công đồn Mang Cá và Tòa sứ Pháp nhưng thất bại, quan quân nhà Nguyễn phải bỏ kinh thành Huế. . Trong thời gian lánh nạn, vua Hàm Nghi chưa bao giờ từ bỏ ý định kháng chiến dù thực dân Pháp dùng đủ thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc. Do đó, thực dân Pháp tìm mọi cách đày Người sang Angiêri. Sau đó, ông cũng sống ở Algérie trong 47 năm và thọ 64 tuổi.

3.9. Vua Đồng Khánh

Sau khi vua Hàm Nghi bị lưu đày, thực dân Pháp bàn với các đại thần Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình lập Quận công Kiên Giang làm vua mới. Ông là một trong ba người con nuôi của vua Tự Đức, ngày 19 tháng 9 năm 1885, được sự bảo trợ của người Pháp, ông lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh. Thời Đồng Khánh càng gần Pháp, phong trào Cần Vương chống Pháp càng lan rộng khắp nơi. Tuy nhiên, cuộc đời làm vua của Đồng Khánh không được bao lâu, ngày 25 tháng 12 năm 1888, Đồng Khánh lâm bệnh qua đời tại chùa Càn Thành (Huế) khi mới 25 tuổi, ở ngôi 3 năm và có 9 người con.

3.10. Vua Thành Thái

Khi vua Đồng Khánh băng hà, 6 người con trai còn quá nhỏ nên triều đình đón con thứ 7 của vua Dục Đức là hoàng tử Bửu Lân, lúc đó mới 8 tuổi lên nối ngôi. Thành Thái là người thông minh, từ khi vua Dục Đức bị phế truất, ông phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Vì vậy, ngay từ nhỏ, ông đã sớm có ý thức về quốc sự và rất thông thái. Nhà vua thích đọc tân thư, nhờ đó ông có tinh thần độc lập dân tộc và tinh thần canh tân. Tuy nhiên, mọi dự định canh tân đất nước của nhà vua đều bị thực dân Pháp ngăn chặn. Đồng thời, vua Thành Thái rất thương dân nên sứ Pháp rất lo lắng, muốn phế truất Thành Thái và thay bằng một ông vua bù nhìn khác. Họ tung tin rằng nhà vua nổi điên muốn hạ thấp quyền lực của mình. Vì vậy, vua Thành Thái buộc phải thoái vị sau 18 năm làm vua vì lý do sức khỏe và bị lưu đày 31 năm để trở về cố hương.

3.11 Vua Duy Tân

Sau khi phế truất vua Thành Thái, thực dân Pháp định dùng con của Thành Thái là hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Nhưng họ không ngờ vị vua trẻ tuổi này còn chống đối quyết liệt hơn cha mình. Ngay từ nhỏ, nhà vua đã có công và lên tiếng phản đối mạnh mẽ người Pháp. Cuối năm 1916, một tổ chức cứu quốc giúp đỡ. Vua Duy Tân bí mật gặp hai viên quan Việt Quang bàn việc khởi nghĩa chống Pháp. Chẳng may, vua bị Pháp bắt giam ở một ngôi chùa ở Quảng Ngãi. Dù bị kẻ thù dụ dỗ nhưng ông vẫn kiên quyết không quay trở lại, cuối cùng ông bị đày đến đảo Reynion. Sau một thời gian dài sống ở nước ngoài, năm 1945 Duy Tân nhận lời trở về Việt Nam nhưng bị tai nạn máy bay năm 46 tuổi.

3.12. Vua Khải Định

Khải Định tên thật là Bửu Đảo, là con của vua Đồng Khánh. Từ khi vua Duy Tân bị lưu đày, người Pháp đã đưa Bửu Đảo lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Khải Định, 32 tuổi. Ông bị coi là một ông vua bù nhìn hạ đẳng trong mắt người dân lúc bấy giờ. Hơn 40 tuổi thì ông mất, tang lễ kéo dài từ 6-11-1925 đến 31-1-1926.

3.13. Vua Bảo Đại

Vua Bảo Đại là vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của thời đại phong kiến ​​của nước ta. Ông là người sớm tiếp cận với văn hóa phương Tây do được cha gửi sang Pháp tu nghiệp. Tuy nhiên, khi lên làm vua, ông đã ban hành một loạt chính sách cải cách, những chính sách này thực chất chỉ là một hình thức mị dân. Ông có mối tình đẹp với bà Nguyễn Hữu Thị Lan – người sau này được vua lập làm Nam Phương hoàng hậu. Đây là trường hợp duy nhất vua Nguyễn lập hoàng hậu khi đang ở ngôi. Dưới thời vua Bảo Đại, quần chúng cách mạng cả nước dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nổ ra cuộc chiến tranh nảy lửa, buộc Bảo Đại phải tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện cách mạng và tuyên bố rằng “Thà làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Sau đó, vua Bảo Đại chính thức trở thành một thường dân, là vị hoàng đế cuối cùng, chấm dứt thời kỳ phong kiến ​​tập quyền tập quyền kéo dài, lịch sử Việt Nam bước sang một trang mới, hình thành nhà nước độc lập.

Trên đây là toàn bộ thông tin về sự ra đời của triều Nguyễn và 13 vị vua của triều đại này. Hi vọng bài viết này cung cấp cho bạn những kiến ​​thức hữu ích. Xin chân thành cảm ơn!

4. Mọi người cũng hỏi

Nhà Nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào?

Trả lời: Nhà Nguyễn ra đời trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc và chia rẽ của Việt Nam vào cuối thế kỷ 16.

Cuộc xâm lược nào ảnh hưởng đến việc ra đời của nhà Nguyễn?

Trả lời: Cuộc xâm lược của quân Mạc vào Đàng Trong và xung đột với triều Nguyễn Hồ đã tạo điều kiện cho sự hình thành của nhà Nguyễn.

Làm thế nào nhà Nguyễn giành quyền lực từ nhà Hồ?

Trả lời: Với sự ủng hộ của dân chúng và một số lãnh đạo quan trọng, Nguyễn Hoàng đã lật đổ nhà Hồ, đặt nền móng cho việc thành lập nhà Nguyễn và trở thành chúa tể độc lập.

Tại sao sự ra đời của nhà Nguyễn mang ý nghĩa lịch sử quan trọng?

Trả lời: Sự ra đời của nhà Nguyễn không chỉ là sự nổi lên trong bối cảnh loạn lạc, mà còn khôi phục ổn định cho khu vực Đàng Trong, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ chia rẽ và khởi đầu thời kỳ độc lập và phát triển mới của vùng đất này.