Nguyên tắc toàn diện

frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen="">
Video nội dung của nguyên tắc toàn diện

nguyen tac toan dien

Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng và trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều mối quan hệ của nó. Vậy nguyên tắc toàn diện là gì? Ví dụ về nguyên tắc toàn diện trong triết học như thế nào? Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Luật Trần và Liên Danh để tìm hiểu thêm về chủ đề này nhé!

Nguyên tắc toàn diện

Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật.

Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng và trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều mối quan hệ của nó.

Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.

Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Việc quan sát trong sự tồn tại của sự vật sự việc trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.

Thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn, nhờ đó tạo ra khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.

Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên… để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân.

Trong thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.

Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ biến nên cũng có những tính chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến. Mối liên hệ giữa các sự vật là có tính khách quan và tính phổ biến vì mọi vật trên thế giới đều có chung bản chất và nguồn gốc, đó là tính vật chất của thế giới. Sự tồn tại khách quan của các sự vật cụ thể đều là biểu hiện của mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài. Không có mối liên hệ giữa các yếu tố bên trong thì không có bản thân sự vật đó, không có mối liên hệ giữa sự vật với những vật xung quanh thì sự vật đó cũng không có điều kiện để tồn tại được. Bên cạnh đó sự vật nào vùng là khâu trung gian và môi giới của nhau, do đó mà các sự vật liên hệ với nhau thành một thể thống nhất mà mỗi sự vật trong đó đều là một bộ phận hay một khâu của nó.

Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện

Theo quan điểm phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ giữa sự phát triển và sự phổ biến dùng để cải tạo hiện thực và nhận thức. Đây cũng chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận của quan điểm toàn diện. Mọi sự vật, sự việc trên đời đều tồn tại song song các mối quan hệ phong phú và đa dạng. Khi nhận thức về hiện tượng, sự vật, sự việc trong cuộc sống chúng ta cần xem xét đến quan điểm toàn diện. Xem xét đến mối liên hệ của sự vật này với sự vật khác nhằm tránh quan điểm phiến diện. Từ đó tránh được việc phán xét con người hay sự việc một cách chủ quan. Không suy xét kỹ lưỡng mà đã vội kết luận về tính quy luật bản chất của chúng.

Với chủ nghĩa duy vật biện chứng, những phản ánh trên sự vật đều được giải thích và đều cần phải giải thích. Khi những nguyên nhân luôn tồn tại và sự vật tác động lẫn nhau. Khi đó, việc nhìn nhận và đánh giá muốn mang đến hiệu quả phải dựa trên những tính chất phản ánh đầy đủ nhất. Xác định đúng đắn mới mang đến hiệu quả trong quan điểm thể hiện. Do đó mà tính chất toàn diện là tính chất cần thiết, quan trọng.

Trong tính chất duy vật biện chứng, những nhìn nhận và đánh giá phải được xây dựng từ nhiều chiều. Nó giải thích cho những phản ánh kết quả tồn tại trên thị trường. Những nguyên nhân được tìm ra có nguyên nhân trực tiếp hay tác động không trực tiếp. Và phản ánh năng lực, khả năng và cái nhìn nhiều chiều của một chủ thể.

Ví dụ về nguyên tắc toàn diện trong triết học

Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về nguyên tắc toàn diện, Luật Trần và Liên Danh đưa ra ví dụ để bạn đọc hiểu rõ hơn về vấn đề.

Nguyên tắc toàn diện thể hiện tỏng tất cả các hoạt động có tác động của phản ánh quan điểm. Như những ví dụ trong đánh giá một con người với những mặt khác nhau phản ánh trong con người họ. Không thể chỉ thực hiện quan sát phiến diện từ những thể hiện bên ngoài để đánh giá tính cách hay thái độ, năng lực của họ. Cũng không thể chỉ dựa trên một hành động để phán xét con người và cách sống của họ.

nguyen tac toan dien
nguyên tắc toàn diện

Khi đánh giá, cần có thời gian cho sự quan sát tổng thể. Từ những phản ánh tỏng bản chất con người, các mối quan hệ của người này với người khác. Cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những nhìn nhận và đánh giá trên từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ cho ra những quan điểm toàn diện. Từ đó mà cách nhìn nhận một người được thực hiện hiệu quả với các căn cứ rõ ràng. Nó không phải là những thứ phù phiếm của nhận định. Chỉ khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét.

Yêu cầu của quan điểm toàn diện

Mối quan hệ này có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa sự vật này với sự vật khác. Giữa mối liên hệ trực tiếp với gián tiếp. Cái nhìn phiến diện không mang đến hiệu quả cho công tác thực hiện. Ngược lại còn có thể tạo ra những nhận định hay quan điểm lệch lạc. Cũng như mang đến các quyết định không đúng đắn cho mục tiêu của thực hiện phản ánh quan điểm.

Đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt từng mối liên hệ. Các nhìn nhận trên các khía cạnh khác nhau phản ánh những đặc trưng riêng biệt. Nó làm nên tính đa dạng của chủ thể tỏng các thể hiện trên thực tế. Do đó mà việc quan tâm và phân tích từng yếu tố cũng được thể hiện trên cơ sở của nó. Cụ thể hơn đó là các mối quan hệ chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ về bản chất. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu rõ được bản chất của sự việc.

Đòi hỏi con người nắm bắt được khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Những nhìn nhận mang đến phản ánh như thế nào cho mức độ phù hợp hay cơ sở phát triển trong tương lai. Hoặc những yếu tố biến động cũng có thể được đánh giá để mang đến nhận định cần thiết. Nó giúp cho việc thực hiện các hoạt động tác động trên sự vật được tiến hành hiệu quả. Đáp ứng các mong muốn của chủ thể tiến hành.

Nguyên tắc toàn diện có ý nghĩa trong việc hoàn thiện nhận thức một cách toàn diện. Bất kể sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng tồn tại trong những mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Chính vì vậy, nó giúp cho con người rèn luyện được khả năng nhận thức mọi việc đa chiều, tránh quan điểm phiến diện, một chiều rồi đưa ra những kết luận chưa trọn vẹn, không đầy đủ, thậm chí đánh giá sai về mọi vấn đề.

Nguyên tắc toàn diện giúp nhận thức được sự vật với tất cả các thành tố, trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người và để cải tạo được sự vật thì phải bằng hoạt động thực tiễn biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như các mối liên hệ qua lại của sự vật đó với các sự vật khác; từ đó, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi những hiện tượng tương ứng.

Nguyên tắc toàn diện có ý nghĩa lớn trong đổi mới nhận thức của Đảng về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

Chủ trương xuyên suốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải đổi mới toàn diện. Quyết định chiến lược này phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, từ bỏ tư tưởng phiến diện, giáo điều, những cách tư duy duy ý chí đã từng tồn tại trong nhiều năm trước đây; tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, của các cấp, các ngành.

Quyết định chiến lược này vừa khẳng định dứt khoát sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, xác định rõ đổi mới toàn diện không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi thích hợp, vừa khắc phục các hạn chế đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo thế ổn định chính trị – xã hội của đất nước.

Về vấn đề đổi mới toàn diện bắt đầu từ đổi mới kinh tế, bởi chỉ đổi mới kinh tế thì mới đảm bảo được cuộc sống nhân dân ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thì mới bắt đầu đổi mới chính trị, mà phải đổi mới từng bước hệ thống chính trị. Chính trị là cơ chế bộ máy Nhà nước, là đầu tàu cho sự phát triển của xã hội, đổi mới chính trị không có nghĩa là thay đổi bản chất của hệ thống chính trị mà chính là nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Tiếp theo, trong vấn đề đổi mới toàn diện, Nhà nước thống nhất phát triển kinh tế xã hội đi kèm với phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Đồng thời, phát triển quốc phòng an ninh, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh để có một đất nước văn minh, an toàn.

Vấn đề toàn diện của Nhà nước cũng được thể hiện ở việc nhận thức, đề ra yêu cầu nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ đối ngoại. Đó là những mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;…

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: nguyên tắc toàn diện là gì? Nếu trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu và giải quyết vấn đề còn điều gì mà bạn đọc thắc mắc hay quan tâm bạn có thể liên hệ chúng tôi thông qua tổng đài tư vấn pháp luật để được hỗ trợ. Luật Trần và Liên Danh xin chân thành cảm ơn!