Nước Văn Lang tồn tại bao nhiêu đời vua Hùng

Nước Văn Lang tồn tại qua mấy đời vua?

Nhà nước Văn Lang trải qua sự cai trị của 18 đời vua Hùng kéo dài trong 2.622 năm. Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng 18 vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi (nhánh/ngành); mỗi chi có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 – vốn là con số thiêng trong văn hóa người Việt.

18 đời vua Hùng gồm:

  1. Kinh Dương Vương – vị vua viễn tổ.
  2. Lạc Long Quân – vị vua cao tổ.
  3. Hùng Quốc Vương – vị vua mở nước.
  4. Hùng Diệp Vương – Bảo Lang.
  5. Hùng Huy Vương – Viên Lang.
  6. Hùng Huy Vương (cùng hiệu với đời thứ 5) huý Pháp Hải Lang.
  7. Hùng Chiêu Vương – Lang Tiên Lang.
  8. Hùng Vi Vương – Thừa Vân Lang.
  9. Hùng Duy Vương – Quốc Lang.
  10. Hùng Uy Vương Vương – Hùng Hải Lang.
  11. Hùng Chính Vương – Hùng Đức Lang.
  12. Hùng Việt Vương – Đức Hiền Lang.
  13. Hùng Việt Vương – Tuấn Lang.
  14. Hùng Anh Vương – Châu Nhân Lang.
  15. Hùng Chiêu Vương – Cảnh Chân Lang.
  16. Hùng Tạo Vương – Đức Quân Lang.
  17. Hùng Nghị Vương – Bảo Quang Lang.
  18. Hùng Duệ Vương – Huệ Lang.

Tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang

Có thể nói, Nhà nước Văn Lang là dạng nhà nước sơ khai, không thể xếp vào dạng nào trong 5 hình thái nhà nước của lịch sử phát triển thế giới; sự phân hóa xã hội và phân chia giai cấp chưa rõ rệt, nhưng chắc chắn đã hình thành sự phân tầng. Quyền lực của giai cấp thống trị chưa thấy xuất hiện ở thời đại này, thể hiện qua việc phong tục thuần hậu, mộc mạc, “vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc” (Lịch triều hiến chương loại chí).

Vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước Văn Lang

Ban đầu, nước Văn Lang thành lập còn rất sơ khai, bộ máy tổ chức còn khá đơn giản, đứng đầu nhà nước là Hùng Vương, ngôi Hùng Vương theo hình thức cha truyền con nối. Về bản chất, Hùng Vương chỉ là thủ lĩnh cao nhất trong cộng đồng các bộ lạc được các tù trưởng bộ lạc tôn phục và nghe theo.

Cho nên, chúng ta có thể hiểu là vua Hùng là từ chỉ chức danh của người tù trưởng bộ lạc Văn Lang, bộ lạc lớn mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta bấy giờ và cũng là bộ lạc giữ vai trò trung tâm liên kết, tập hợp các bộ lạc khác.

Các bộ lạc liên minh lại đã dẫn đến sự ra đời quốc gia, nhà nước Văn Lang. Hùng Vương trở thành thủ lĩnh của cả liên minh bộ lạc, sau đứng đầu một tổ chức nhà nước sơ khai.

Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) cũng thế tập cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, bố tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên ghi là kẻ, chạ, chiềng). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính (có nghĩa là già làng). Bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn. Mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.

Như vậy, so với chế độ công xã nguyên thủy, với xã hội của các thị tộc trước đó, Nhà nước Văn Lang đã đưa toàn bộ các bộ lạc Việt cổ bước sang một thời đại mới, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới.

Nhà nước Văn Lang còn sơ khai chưa có luật pháp và quân đội. Khi có chiến tranh xảy ra các vua Hùng và các Lạc tướng kêu gọi, huy động lực lượng thanh niên ở các chiềng chạ tập hợp lại để chống lại quân thù. Vũ khí ở thời kỳ này sử dụng cho chiến tranh chủ yếu là các loại vũ khí thô sơ như: gậy gộc, đá, một số vũ khí bằng đồng.

Những thành tựu rực rỡ của thời kỳ nhà nước Văn Lang

Đời sống vật chất và tinh thần của người dân Văn Lang – u Lạc được phản ánh qua truyện truyền thuyết, thư tịch cổ Việt Nam, thư tịch cổ Trung Quốc… và qua hàng loạt các di tích, lễ hội ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (đậm đặc nhất ở Phú Thọ); cùng với đó là những phát hiện khảo cổ về văn hóa Đông Sơn như: sưu tập trống đồng, công cụ lao động, vũ khí, mộ táng… đã minh chứng cho sự tồn tại của nhà nước Văn Lang – u Lạc thời kỳ đầu dựng nước, thời kỳ đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của đất nước Việt Nam.

a) Nông nghiệp

Thời đại Văn Lang có sự phát triển mạnh về nông nghiệp. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, gọi là ruộng Lạc; biết khắc phục thiên nhiên (truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh), sử dụng dụng cụ nông nghiệp (cày, cuốc, mai, thuổng) và dùng sức trâu bò thay sức người, nhờ vậy người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần khá phong phú. Với nguồn lương thực chính là thóc gạo (gạo nếp và gạo tẻ), dân Văn Lang đã biết lấy ống tre thổi cơm (cơm lam), làm bánh (sự tích bánh chưng, bánh giầy); ngoài ra còn có khoai, sắn, thực phẩm có các loại cá, gia súc, gia cầm, rau củ. Đặc biệt, thời này người dân đã biết làm mắm và nước mắm, cũng biết lấy gạo làm rượu, men rượu được chế biến từ lá, vỏ, rễ một số loại cây, giống như rượu cần ngày nay.

b) Các phong tục, tập quán, tín ngưỡng đa dạng

Cư dân Văn Lang có tập quán ở nhà sàn, nhuộm răng đen, ăn trầu (sự tích trầu cau), xăm mình. Theo Lĩnh Nam chích quái, dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá thường bị giao long (thuồng luồng) làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo dân ta ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn dạy dân lấy mực xăm hình thủy quái trên người, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đây.

Tín ngưỡng phổ biến của cư dân Văn Lang là sùng bái tự nhiên, thờ thần Mặt Trời (ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống đồng là tượng trưng cho thần Mặt Trời), thần Sông, thần Núi… Người Việt cũng có tín ngưỡng phồn thực thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu, nhưng không thờ sinh thực khí. Ngoài ra, người Việt cổ còn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các vị anh hùng, người có công với làng nước (thờ Thánh Gióng, thần Tản Viên…), mà đỉnh cao là tục thờ cúng Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3 âm lịch là ngày lễ truyền thống của Việt Nam được giữ gìn, kế thừa đến tận ngày nay.

c) Trang phục, vũ khí

Ban đầu, người dân Văn Lang lấy vỏ cây làm áo mặc, phụ nữ mặc áo váy, nam giới đóng khố; biết dệt cỏ ống làm chiếu nằm, sau đó biết sáng chế dụng cụ xe sợi bằng đất nung – tiền đề của việc dệt vải. Cả nam lẫn nữ đều thích dùng đồ trang sức. Người dân cũng biết gác cây làm nhà để tránh thú dữ, giống nhà sàn hiện nay.

d) Thời kỳ đồ đồng phát triển cực thịnh với “trống đồng Đông Sơn”

Một thành tựu lớn khác là người dân biết sử dụng đồ đồng. Tư liệu khảo cổ cho thấy giai đoạn cực thịnh của nền văn hóa Đông Sơn là trong thời đại Hùng Vương. Khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng. Một số mỏ nông và lộ thiên, dễ khai thác thủ công, là điều kiện phù hợp để phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ mà đỉnh cao là trống đồng cùng các loại thạp, thố với tỷ lệ hợp kim nguyên liệu lý tưởng và hoa văn sắc sảo miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ này như lễ “khánh thành” trống đồng, lễ chiêu hồn, đám tang, lễ cầu mùa, giã gạo, đánh trống, bơi chải…

Ngày mùng 10 tháng 03 năm âm lịch hằng năm, toàn dân đều tổ chức ngày Giỗ tổ để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước một cách trang nghiêm và ca dao cũng có câu:

” Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng Ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hai lần về thăm Đền Hùng vào ngày 19 tháng 09 năm 1954 và ngày 19 tháng 08 năm 1962. Bác đã từng nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Sự ra đời của nhà nước Văn Lang còn rất sơ khai nhưng đã phần nào đánh dấu cho bước phát triển mạnh mẽ cho thời đại lịch sử của Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ dựng nước và giữ nước của người Việt, cho nền văn minh sông Hồng.