Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là gì? – Luật ACC

Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” trên Nhân dân Nhật báo ngày 17/5/2021. Bài báo chỉ rõ: “Chúng ta thừa nhận chưa bao giờ chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa như hiện nay, đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trên lĩnh vực giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển khoa học và công nghệ”. trong điều kiện kinh tế tương đối Trên cơ sở tốt, thông qua đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, các biện pháp điều chỉnh đã được thực hiện, nhiều chế độ phúc lợi đã được hình thành, phúc lợi xã hội cao hơn trước rất nhiều. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không khắc phục được những mâu thuẫn bên trong của nó…”. Vậy thì quan hệ sản xuất nói chung của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là quan hệ phân phối, được điều chỉnh như thế nào? Những mâu thuẫn cơ bản nào vốn có của chủ nghĩa tư bản mà bản thân chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được? Tại sao không? về việc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa?Dưới góc độ kinh tế chính trị, bài viết này sẽ góp phần làm sáng tỏ những luận điểm trên.

1. Những điều chỉnh, thích nghi có tính bước ngoặt về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại

Trước hết, phải nhìn nhận chủ nghĩa tư bản là một nấc thang trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. C.Mác đánh giá: Chủ nghĩa tư bản là xấu xa so với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nó là một hình thái kinh tế, xã hội tiến bộ nhất so với những hình thái kinh tế, xã hội đã có trong lịch sử. Và sự điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại được thực hiện trên nhiều phương diện, nhất là quan hệ sản xuất.

Trở lại lịch sử những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, các học giả tư sản “rêu rao” về chiến thắng của chủ nghĩa tư bản, cho đây là thời điểm “cáo chung của học thuyết Mác”, rằng chủ nghĩa xã hội đã “lỗi thời, lạc hậu”, và chủ nghĩa tư bản mới là đích đến cuối cùng của nhân loại. Đồng thời, bằng những điều chỉnh để tự thích nghi về quan hệ sản xuất, họ cũng biện minh cho một thứ chủ nghĩa tư bản đã có sự thay đổi về chất để trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản tiến bộ… Vậy, những điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là gì?.

Về quan hệ sở hữu: Ngoài đối tượng sở hữu đã có những thay đổi lớn (từ sở hữu hiện vật sang giá trị), với việc chia nhỏ cổ phần, phát hành cổ phiếu mệnh giá thấp, chủ nghĩa tư bản đã huy động được hàng triệu nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân tập trung thành nguồn lực to lớn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, phần nào làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo “không gian” cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu phần nào “xóa đi” ranh giới giữa nhà tư bản với người lao động, tạm thời dung hòa mâu thuẫn giữa ông chủ và người làm thuê. Bởi về mặt hình thức, cả nhà tư bản và người lao động đều có cổ phần và trở thành cổ đông của nhà máy, xí nghiệp nên đều là “ông chủ” – đồng sở hữu, đều “bình đẳng” trước phương án tổ chức quản lý và kết quả sản xuất kinh doanh.

Về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất: Trong chủ nghĩa tư bản đương đại, ta thấy dường như các nhà tư bản tách rời và đứng ngoài quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Bằng việc áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và sử dụng những người lao động có trình độ cao về tổ chức quản lý sản xuất, các nhà tư bản đã từng bước hoàn thiện quy trình sản xuất, đồng thời chọn lựa đưa ra được những phương án kinh doanh tối ưu. Các nhà tư bản không còn trực tiếp hiện diện trong các dây chuyền sản xuất như vai trò của những người “đốc công”. Quan hệ trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh dường như chỉ còn lại là quan hệ giữa những người lao động với nhau. Có chăng chỉ là sự khác biệt về “sắc áo, lợi ích và thẩm quyền”. Mâu thuẫn, xung đột trực diện giữa các nhà tư bản và lao động dường như đã được giải quyết.

Về quan hệ phân phối: Bên cạnh các hình thức phân phối thông qua giá cả sức lao động, trong chủ nghĩa tư bản đương đại cũng xuất hiện nhiều hình thức phân phối khác đa dạng, phong phú hơn. Bao gồm: Điều tiết phân phối giá trị thặng dư thông qua thuế; phân phối thông qua lợi tức cổ phần; trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội; các hình thức đầu tư cho giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; tăng mức “thưởng và đãi ngộ cho người lao động”… phần nào tạo ra nguồn thu nhập thêm cho người lao động. Sự bóc lột của nhà tư bản không còn “đậm nét” như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mà thay vào đó là hình ảnh của các nhà tư bản “quan tâm, chăm sóc và sẻ chia” cùng người lao động.

Như vậy, sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đã làm cho hình ảnh “cừu ăn thịt người” với “lỗ chân lông nhuốm đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản” của chủ nghĩa tư bản “bóc lột, ăn bám”, “tàn nhẫn” trong quá khứ bị lu mờ. Thay vào đó là hình ảnh về một chủ nghĩa tư bản “hiện đại, tiến bộ”, “chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân ái”… Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể giải thích khoa học cả về hiện tượng, hình thức, mục đích, nguyên nhân và giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại.

2. Bản chất của những điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại

Cần khẳng định: Sự biến đổi thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là có thật nhưng sự điều chỉnh đó không thể tự nó chuyển sang một hình thái kinh tế – xã hội mới. Sự điều chỉnh đó vẫn trong phạm vi giới hạn vỏ bọc của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn nằm trong giai đoạn độc quyền của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Có thể cắt nghĩa vấn đề trên bằng những luận cứ khoa học sau:

Một là, Về quan hệ sở hữu: Mặc dù có nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhưng vấn đề đặt ra là công nhân nắm giữ bao nhiêu phần trăm trong số hàng vạn cổ phần trong xí nghiệp tư bản chủ nghĩa? Ai còn nắm giữ bao nhiêu cổ phần, cổ phần lớn hay cổ phần lãnh đạo? … Câu trả lời phải là các nhà tư bản. Thông qua chế độ cổ phần, theo mô hình một công ty mẹ kiểm soát nhiều công ty con, một công ty con kiểm soát nhiều công ty con… mà thế lực kinh tế, chính trị, xã hội của các nhà tư bản, doanh nghiệp độc quyền ngày càng tăng. Vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Sự điều chỉnh thích ứng của quan hệ quyền sở hữu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện nay làm cho nó thích ứng ở một mức độ nhất định với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, để tiếp tục duy trì và củng cố hệ thống tư bản chủ nghĩa. Quyền tài sản không thay đổi.

Hai là,Về cơ quan quản lý sản xuất: Trong cơ quan quản lý sản xuất, việc tuyển dụng, sa thải (bao gồm giám đốc sản xuất, giám đốc kỹ thuật, giám đốc marketing, thậm chí cả giám đốc tài chính…) đều do người viết quyết định. Điều chỉnh một cách thích ứng mối quan hệ giữa tổ chức và quản lý sản xuất để tận dụng nguồn nhân lực, tiềm năng công nghệ, phục vụ khát vọng làm giàu của các nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh thích ứng của tổ chức kinh doanh tạo ra một mức độ thích ứng nhất định và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển xã hội hóa của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, vì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của các nhà tư bản nên quyền tổ chức và quản lý sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản có bản chất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân vẫn là quan hệ chủ và thợ. Nhà kinh tế học người Pháp Thomas Piketty đã nhận xét trong cuốn sách “Tư bản trong thế kỷ 21”: “Dữ liệu kế toán mà các công ty hiện được yêu cầu tiết lộ là hoàn toàn không đủ để cho phép người lao động hay công dân bình thường bày tỏ ý kiến ​​​​của họ về các quyết định của công ty, chứ chưa nói đến việc can thiệp vào họ. Quyết định”.

Ba là, trong quan hệ phân phối: Thực hiện trả lợi tức cổ phần và sử dụng một bộ phận lợi nhuận khổng lồ để phân phối thông qua các quỹ không làm cho bản chất của quan hệ phân phối thay đổi. Nhìn nhận một cách khác, việc điều chỉnh quan hệ phân phối sản phẩm phần nào góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân làm thuê. Tuy nhiên, những điều chỉnh về quan hệ phân phối đã làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản không còn là xã hội bóc lột và bất công, là “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, xã hội mà “toàn dân là tư sản”, từ đó gây ra sự chia rẽ trong phong trào đấu tranh của công nhân.

3. Giới hạn về những điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản – Chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ là tất yếu

Bản thân chủ nghĩa tư bản không thể biến đổi khỏi cái vỏ bọc của chính nó để sang một hình thái kinh tế – xã hội mới. Đây cũng chính là giới hạn thích ứng, quyết định địa vị lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung, chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền nói riêng. Giới hạn không thể vượt qua của chủ nghĩa tư bản là năng suất phát triển cao, tạo ra số lượng lớn hàng hóa và dịch vụ, loài người không còn những vấn đề như đói, thất nghiệp, mù ​​chữ, nợ nần, từng bước tiến tới đỉnh cao của văn minh. và hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, ngay cả ở những nước tư bản phát triển nhất, tình trạng bóc lột, bất công, nghèo đói vẫn diễn ra và ngày càng sâu sắc. Nguyên nhân là do quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thống trị nền kinh tế. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất này với lực lượng sản xuất xã hội hóa cao ngày càng sâu sắc. Đây là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại, biểu hiện ở những mâu thuẫn chủ yếu sau đây trong xã hội:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê: Hiện nay, giai cấp công nhân hiện đại có trình độ chuyên môn ngành nghề ngày càng cao, trong số đó có người giữ các chức vụ là giám đốc, tổng giám đốc… Nhưng xét cho cùng vì không có tư liệu sản xuất nên họ vẫn ở địa vị của người làm thuê, vẫn phải làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. Tiền lương vẫn là thu nhập chủ yếu và vẫn là giá cả sức lao động của người công nhân làm thuê. Họ vẫn đang bị bần cùng hoá (cả tương đối và tuyệt đối).

Thứ hai, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển, chậm phát triển: Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, các nước tư bản phát triển vẫn không từ bỏ ý đồ lôi kéo các nước đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa nhằm áp đặt quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, người ta nói nhiều về “chủ nghĩa thực dân kinh tế”, “chủ nghĩa thực dân công nghệ”. Chính mối quan hệ kinh tế bất bình đẳng giữa các nước tư bản phát triển với các nước thế giới thứ ba đã đem lại những khoản siêu lợi nhuận cho các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, sức lao động dồi dào và rẻ mạt đã biến các nước có nền kinh tế lạc hậu thành những miền đất hứa cho tư bản sinh sôi và cho những công nghệ, thiết bị lạc hậu của các nước tư bản phát triển tiếp tục “sản sinh” giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền tư bản, giữa các công ty xuyên quốc gia, giữa các trung tâm quyền lực tư bản chủ nghĩa với nhau: Đây là mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa tư bản, nó đã từng tồn tại trong suốt cả thế kỷ XX và vẫn tiếp diễn sang thế kỷ XXI. Chính mâu thuẫn này đã đẩy nhân loại lâm vào hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc nhất trong lịch sử. Hiện tại, mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực kinh tế tư bản chủ nghĩa gay gắt tới mức người ta đã dùng tới những thuật ngữ như: chiến tranh địa chính trị; chiến tranh cá thu, chiến tranh ôtô; chiến tranh nhôm, thép; chiến tranh vaccine… Đặc biệt, thời gian gần đây mâu thuẫn giữa Mỹ với Liên minh châu Âu (EU), giữa Mỹ với các nước tư bản khác trên các vấn đề thương mại, sự đóng góp tài chính cho các hoạt động quân sự… chính là liên minh trong mâu thuẫn đã được V.I.Lênin khái quát bằng cụm từ “liên minh chó sói”.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội và những vấn đề toàn cầu: Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có người cho rằng chủ nghĩa xã hội không còn và như vậy, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội cũng không còn nữa. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại ở một số quốc gia, vẫn là một thực thể kinh tế – chính trị – xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội vẫn là một trào lưu chính trị – tư tưởng ở các nước tư bản, các nước có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và ở ngay chính cả những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị tan rã cách đây trên dưới 3 thập niên. Đặc biệt, khi phần lớn những lợi nhuận của xã hội chỉ tập trung vào trong tay số ít các nhà tư bản, sự bất bình đẳng trong xã hội tiếp tục gia tăng thì những vấn đề toàn cầu đói nghèo, dịch bệnh, sự biến đổi của khí hậu, chiến tranh, tội phạm quốc tế… sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để.