Tìm hiểu 65 năm lịch sử vẻ vang Quân khu 7

Lịch sử phát triển của Quân khu 7Để tạo thuận lợi cho các cá nhân, tập thể tham gia cuộc thi tìm hiểu 65 năm lịch sử vẻ vang Quân khu 7, từ số báo hôm nay, Báo Bà Rịa -Vũng Tàu giới thiệu một số nét chính về lịch sử và truyền thống của Quân khu 7.

Ngày 23-09-1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. Quân và dân Nam bộ, trước hết là quân và dân Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định đã thay mặt cả nước đứng lên chiến đấu, cuộc chiến lan rộng ra khắp miền Đông và sau đó là miền Tây Nam bộ.

Để có sự thống nhất trong chỉ huy, chỉ đạo, ngày 10-12-1945 tại Hội nghị quân sự Nam bộ do Xứ ủy tổ chức (họp ở xã Bình Hoà Nam, huyện Đức Hòa tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long An) đã ra quyết định thành lập Khu 7 – một tổ chức quân sự hành chính do các đồng chí Nguyễn Bình làm Khu bộ trưởng, Trần Xuân Độ làm Chủ nhiệm Chính trị bộ.

Địa bàn Khu 7 khi thành lập bao gồm phần đất Nam bộ ở phía Đông sông Vàm Cỏ Đông, gồm các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn và TP Sài Gòn. Đến tháng 12-1948 có quyết định thành lập khu Sài Gòn trực thuộc Bộ Tư lệnh Nam bộ thì khu 7 chỉ còn lại các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa,Thủ Dầu Một, Tây Ninh, đến tháng 5-1950 khu 7 và khu Sài Gòn-Chợ Lớn sáp nhập lại như cũ.

Tháng 6-1951, tổ chức chiến trường Nam bộ có sự thay đổi lớn. Chiến trường Nam bộ được chia thành 2 phân liên khu và 1 đặc khu. Đó là Phân liên khu miền Đông, Phân liên khu miền Tây (lấy sông Tiền làm ranh giới) và đặc khu Sài Gòn. (Lâm Đồng, Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp thuộc khu 5).

Phân liên khu miền Đông gồm các tỉnh: Thủ Biên (do Thủ Dầu Một và Biên Hòa sáp nhập), Gia Định Ninh (do Gia Định và Tây Ninh sáp nhập) Bà Chợ (do Bà Rịa và Chợ Lớn sáp nhập), Mỹ Tho (gồm Mỹ Tho, Gò Công và Tân An sáp nhập). Long Châu Sa (do phần Long Xuyên, phần Châu Đốc phía Đông sông Tiền và Sa Đéc sáp nhập). Toàn Nam bộ 20 tỉnh, lúc đó sáp nhập còn 10 tỉnh.

Sau Hiệp định Giơnevơ 7-1954, chấp hành chỉ thị của trên, phần lớn các đơn vị bộ đội tập trung ở miền Đông, tập kết chuyển quân ra Bắc. Số cán bộ còn lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Hai phân liên khu miền Đông và miền Tây được lệnh giải thể chỉ còn giữ lại đặc khu Sài Gòn hoạt động bí mật.

Trong kháng chiến chống Mỹ, miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ thuộc chiến trường B2. Chiến trường B2 gồm Nam bộ, một phần cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên (Đắc Nông, Lâm Đồng, Ninh Thuận và Đắc Lắc ngày nay). B2 bấy giờ chia thành 4 khu: khu 6 (gồm phần cực Nam Trung bộ), khu 7, khu 8, khu 9.

Riêng ở địa bàn miền Đông Nam bộ từ tháng 5 năm 1961 có 2 Quân khu: Quân khu 7 (mật danh T1, hay T7; gồm các tỉnh: Phước Tuy, Long Khánh, Phước Long, Bình Long, Bình Dương, Tây Ninh, Biên Hòa, Bà Rịa) và Quân khu Sài Gòn-Gia Định (mật danh T4 hay l4).

Đến tháng 10-1967, để tổ chức lại chiến trường chuẩn bị cho đợt tổng công kích Mậu Thân 1968, trên quyết định giải thể khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định, tổ chức khu trọng điểm với trung tâm là Sài Gòn, chia địa bàn miền Đông (lúc này có thêm tỉnh Long An) ra làm 6 phân khu, trong đó có 5 phân khu trong và ven đô, hình thành các mũi tiến công vào Sài Gòn. Phân khu 1 (Bắc-Tây Bắc), phân khu 2 (Tây-Tây Nam), Phân khu 3 (Tây Nam) phân khu 4 (Đông Nam), phân khu 5 (Đông-Đông Bắc), phân khu 6 (Phân khu Trung tâm) và tổ chức 2 Bộ Tư lệnh (Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc và Bộ Tư lệnh tiền phương Nam).

Đến thời kỳ chống “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, năm phân khu sáp nhập còn 4 phân khu (phân khu 2 và 3 sáp nhập thành phân khu 23) và phân khu nội đô (Trung tâm). Đến 19-08-1972, do vị trí của chiến trường miền Đông Nam bộ là chiến trường quan trọng nên trên quyết định thành lập lại Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định. Quân khu 7 lúc này gồm các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh, Phước Bình, (Phước Long-Bình Long) Tây Ninh, Bình Dương, Long An.

Sau ngày toàn thắng, theo quyết định của Quân ủy Trung ương (02-07-1976). Bộ chỉ huy Miền (B2) được giải thể, các Quân khu 5,7,9 được thành lập, chiến trường miền Đông chính là Quân khu 7 (từ 1976 đến 1998 với 7 tỉnh thành: Đồng Nai, BR-VT, Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước và TP.HCM). Từ tháng 12-1998 , Quân khu 7 có thêm 2 tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng. Như vậy, hiện nay Quân khu 7 có 9 tỉnh (thành phố).

Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)

LLVT cách mạng ở miền Đông Nam bộ ra đời từ sau Cách mạng Tháng Tám-1945. Cùng với quá trình phát triển của sự nghiệp kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và được nhân dân che chở, nuôi dưỡng, LLVT 3 thứ quân ở miền Đông Nam bộ lần lượt hình thành và gắn liền với các phong trào cách mạng của nhân dân, gắn liền với từng bước đi của lịch sử dân tộc.

Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, quân và dân miền Đông Nam bộ, trước hết là quân và dân thành phố Sài Gòn đã anh dũng đứng lên kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn bỡ ngỡ của buổi đầu đánh giặc, quân và dân Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định đã vây hãm quân địch trong thành phố, tạo điều kiện cho nhân dân toàn miền củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng LLVT, xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị tinh thần và thực lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Sau gần 15 tháng chiến đấu, quân và dân miền Đông Nam bộ đã hoàn thành nhiệm vụ “đi trước” mà lịch sử giao phó, góp phần làm xáo trộn kế hoạch chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, tạo điều kiện về thời gian cho nhân dân cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến một cách chủ động.

Từ năm 1947 đến năm 1950, địa bàn miền Đông Nam bộ là một trong những trọng điểm “bình định” của địch, một trong những hậu phương dự trữ chiến lược của chúng ở chiến trường Việt Nam. Quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã tập trung nỗ lực chống lại chính sách “bình định” của địch, chấn chỉnh và xây dựng LLVT 3 thứ quân, sáng tạo ra nhiều cách đánh độc đáo và có hiệu quả trong chống càn quét, trong phục kích giao thông, trong tiến công đồn bốt, cứ điểm, tháp canh và tổ chức chiến dịch lớn. Đây cũng là giai đoạn mà phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Cuộc kháng chiến được đẩy mạnh trên mọi mặt, góp phần đánh bại chính sách “bình định” của địch.

Giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, trong điều kiện bị địch chia cắt, phong tỏa và càn quét liên miên, quân và dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ giữ vững phong trào, khắc phục những lệch lạc hữu khuynh trong thực hiện phương châm ba vùng, đấu tranh giành giật sức người, sức của với địch. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh du kích, kết hợp với phong trào đấu tranh đô thị và địch ngụy vận, cầm chân địch tại chỗ, không ngừng mở rộng căn cứ địa và xây dựng cuộc sống mới mọi mặt ở vùng giải phóng, quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã từng bước giành lại thế chủ động, tạo thế, tạo lực, tích cực góp phần cùng quân và dân cả nước tiến công địch trong Đông-Xuân 1953-1954, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975)

Từ sau Hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ từng bước nắm chính quyền thống trị miền Nam Việt Nam, gạt Pháp và mọi thế lực thân Pháp, xây dựng bọn tay sai ngụy quyền, ngụy quân, thực hiện chính sách thực dân mới, tiến hành đánh phá quyết liệt cách mạng miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã vững bước vào cuộc chiến đấu trong mối tương quan lực lượng không cân sức, dần dần gầy dựng lực lượng, cùng với đồng bào cả nước thực hiện cuộc kháng chiến lâu dài.

Ngay những ngày đầu bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong thế trận rất chênh lệch, nhưng nhân dân miền Đông và cực Nam Trung bộ vẫn vững tin vào đường lối chủ trương của Đảng, kiên trì cuộc đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định Giơneve, đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống “tố cộng, diệt cộng”, chống càn quét, khủng bố, cướp đất, dồn dân. Vừa đấu tranh chính trị, vừa có ý thức chuẩn bị tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang. Nhất là từ sau khi Ban Quân sự và Đảng ủy Miền được thành lập (tháng 12-1956), do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, ủy viên quân sự Xứ ủy phụ trách thì công tác tích trữ vũ khí, xây dựng lại 2 căn cứ lớn: Dương Minh Châu, chiến khu D và nhiệm vụ tranh thủ các lực lượng giáo phái càng được đẩy mạnh, từng bước đưa đấu tranh vũ trang từ tự vệ lên tuyên truyền diệt ác, rồi tác chiến, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Tháng 06- 1958, Bộ Tư lệnh miền Đông được thành lập; ngày 15-2-1961, Quân giải phóng miền Nam công bố thành lập từ sự thống nhất các đơn vị lực lượng vũ trang cánh mạng. Từ đó phong trào đấu tranh và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng càng phát triển mạnh mẽ.

Từ 1957 đến đầu năm 1961, các đơn vị đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông đã thực hiện một số trận đánh, đặc biệt trận đánh quận lỵ Dầu Tiếng (ngày 11-8-1958), sau 30 phút ta tiêu diệt và làm chủ toàn bộ căn cứ 1 tiểu đoàn lính “cộng hòa”, gây tiếng vang lớn trong toàn miền Đông và cả nước. Lần đầu tiên từ sau 1954, lực lượng vũ trang miền Đông chiếm được một chi khu quân sự địch. Trận đánh vào trụ sở cơ quan MAAG của Mỹ đóng tại nhà máy của BIF Biên Hòa do đặc công biệt động Biên Hoà thực hiện (ngày 9-7-1959), là trận đánh Mỹ dầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, diệt 2 tên cố vấn Mỹ, ghi tên đầu tiên trong danh sách lính Mỹ tử trận ở Việt Nam, gây tiếng vang lớn ở chiến trường. Ngày 26-1-1960, lực lượng vũ trang miền Đông đánh trận Tua 2 (Tây Ninh) làm chủ căn cứ một trung đoàn chủ lực ngụy, diệt và làm bị thương, bắt sống nhiều tên, thu nhiều vũ khí trang bị, mở đầu cho phong trào Đồng khởi ở miền Đông. Trong cuộc Đồng khởi 1960, quân dân miền Đông và cực Nam Trung bộ đã đánh sụp ngụy quyền cơ sở, giành quyền làm chủ phần lớn nông thôn (Thủ Dầu Một giải phóng 25/60 xã, Long An giải phóng 2/3 nông thôn, Kiến Tường phá banh gần hết khu trù mật dinh điền, Tây Ninh giải phóng 1/3 nông thôn, vùng ven Sài Gòn kiểm soát hơn 1/2 địa bàn phía Bắc, làm chủ vùng nông thôn Tây, Tây Nam thành phố…).

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)

Từ năm 1961 đến giữa năm 1965, khi Mỹ-ngụy đổi chiến lược từ chiến tranh đơn phương sang tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, quân dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung bộ vẫn giữ vững và phát triển quyền chủ động tiến công địch, nhanh chóng chuyển hướng chiến lược từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang ba thứ quân (du kích xã, bộ đội khu và bộ đội chủ lực Miền). Từ năm 1961 đến năm 1965, trên chiến trường miền Đông đã có những đơn vị chủ lực cấp tiểu đoàn, trung đoàn. Trên cơ sở lực lượng phát triển, quân và dân miền Đông và cực Nam Trung bộ đã vận dụng linh hoạt phương châm hai chân, ba mũi, ba vùng. Kết hợp tiến công với nổi dậy, tiêu diệt với làm chủ, sáng tạo nhiều hình thức phong phú của chiến tranh nhân dân, đưa chiến tranh nhân dân phát triển lên trình độ cao, tập trung phá “ấp chiến lược”, từng bước làm phá sản “quốc sách ấp chiến lược”, liên tiếp đánh bại các kế hoạch bình định của địch, giải phóng từng mảng nông thôn rộng lớn ở miền núi và đồng bằng; đồng thời kết hợp đẩy mạnh phong trào đô thị dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và sự khủng hoảng của chế độ tay sai của Mỹ.

Trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt, LLVT miền Đông và cực Nam Trung bộ đã đánh nhiều trận tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. Trong đó tiêu biểu nhất là chiến dịch Bình Giã (từ ngày 2-12-1964 đến 7-01-1965). Đây là lần đầu tiên trên chiến trường B2 ta mở chiến dịch lớn cấp Sư đoàn.

Bình Giã là trận đánh lớn thứ hai sau Ấp Bắc, ta đánh bại chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của Mỹ. Diệt và làm bị thương 1.755 tên. Lần đầu tiên ta diệt một tiểu đoàn dù thuộc lực lượng Tổng trù bị của quân ngụy. Chiến dịch Bình Giã là trận đánh mạnh nhất làm sụp đổ chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

Giữa năm 1965 Đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Miền Đông là chiến trường địch tập trung lực lượng cả Mỹ lẫn ngụy cùng khối lượng vũ khí và phương tiện chiến tranh lớn nhất.

Chiến trường miền Đông lúc này đã có 3 Sư đoàn chủ lực Miền (Sư 9, Sư 5, Sư 7). Bộ đội chủ lực Khu 7 phát triển lên 2 trung đoàn, Quân khu Sài Gòn-Gia Định có 5 tiểu đoàn chủ lực và đặc khu Rừng Sác được thành lập ngay sát nách Sài Gòn. Với lực lượng phát triển mạnh lại được sự chi viện của cả nước, quân dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung bộ đã chủ động xác định quyết tâm đánh Mỹ, diệt ngụy, vận dụng phương thức, phương châm tiến hành chiến tranh một cách linh hoạt, có hiệu quả, phát huy khả năng đỊa phương trong việc đảm bảo hậu cần tại chỗ, đặt cơ sở cho việc xây dựng và phát triển mạng lưới hậu cần nhân dân trong chiến tranh, góp phần lần lượt đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất và lần thứ hai của địch, thực hành các cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968, đánh vào các sào huyệt của địch ở Sài Gòn, giành thắng lợi lớn, góp phần buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và chịu đàm phán với ta ở Pari.

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)

Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ sau ngày ký Hiệp định Paris (27-01-1973), quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã nhanh chóng khắc phục những lúng túng ban đầu (để cho địch lấn đất, chiếm dân), kịp thời chuyển sang thế tấn công giành chủ động. Nhằm tạo thêm thế và lực mới, từ ngày 12-12-1974 đến 06-01-1975, ta quyết định mở chiến dịch đường 14 Phước Long và giành thắng lợi quan trọng, ta giải phóng một tỉnh mà địch không lấy lại được, Mỹ không dám can can thiệp trở lại. Việc giải phóng Phước Long đã trở thành “Đòn trinh sát chiến lược”, tạo thêm cơ sở để Bộ Chính trị bàn về quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong năm 1976 hoặc 1975.

Qua chiến thắng Buôn Ma Thuột-Tây Nguyên và các chiến thắng ở miền Đông Nam bộ, Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. Trung ương cực miền Nam đã ra quyết định 15 (ngày 29-03-1975) về tổng công kích, tổng khởi nghĩa thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị. Ngày 7-4-1975, nhiệm vụ được quán triệt tại căn cứ Tà Thiết (Tây Lộc Ninh), Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập.

Lực lượng tại chỗ được thống nhất lại (gồm Sư đoàn 2 đặc công Miền, Lữ 316 đặc công biệt động, các lực lượng của Sài Gòn – Gia Định). Riêng đặc công biệt động có 30 tiểu đoàn. Nhiệm vụ của các lực lượng tại chỗ là đánh chiếm các mục tiêu then chốt có thể chiếm được, phát động nhân dân nổi dậy làm chủ, tạo mọi điều kiện tại chỗ để các quân đoàn tiến vào giải phóng Sài Gòn. Nhiệm vụ đặc biệt là chiếm giữ 14 cây cầu trên các ngả đường tiến về Sài Gòn (chủ yếu do Lữ 316 đặc công biệt động và trung đoàn đặc công 116 thực hiện).

Thực lực chính trị vũ trang Sài Gòn – Gia Định trước Chiến dịch Hồ Chí Minh có: Nội thành 700 cán bộ, ngoại thành có trên 1.000 cán bộ, ngoài ra có 1.300 cán bộ đã tiếp cận nội đô sẵn sàng vào nội đô để phát động quần chúng nổi dậy. Nội thành và vùng ven có 1.290 đảng viên, có hơn 10.000 quần chúng nòng cốt, hơn 7.000 quần chúng cơ sở, 400 tổ chức công khai và bí mật với gần 25.000 người do ta nắm. Biệt động: 60 tổ, 301 quần chúng có vũ trang, 30.000 quần chúng sẵn sàng nổi dậy, trên 3.300 du kích, và trên 300 tự vệ mật. Các đơn vị tập trung của LLVT tại chỗ và các đơn vị đặc công biệt động đã đến vùng ven.

Ngay sau khi có lệnh trong hai ngày 29 và 30-04-1975 quân dân miền Đông Nam Bộ đã cùng các binh đoàn chủ lực thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy thành công, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn, có 2 cánh quân thuộc các lực lượng chiến đấu trên chiến trường Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đó là Quân đoàn 4 ở hướng Đông và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) ở hướng Tây Nam.

Về nổi dậy: Quần chúng Sài Gòn, Gia Định đã nổi dậy ở 107 khu vực (có 31 khu ngoại thành), 32 khu vực nổi dậy trong ngày 29-4 và rạng sáng 30-4, 34 khu vực nổi dậy trước khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

Sau 30-04-1975, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tham gia thực hiện nhiệm vụ quân quản, tổ chức sắp xếp lại lực lượng và tiến hành thành lập QK7 theo chỉ đạo của Trung ương.

Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế (1977 – 1989)

Vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chưa được bao lâu, lực lượng vũ trang Quân khu 7 lại bắt tay vào cuộc chiến đấu mới: cùng nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh trên tất cả các lĩnh vực, góp phần xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới.

Ngày 30-04-1977, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam do bọn phản bội Pôn-pốt tiến hành đã bắt đầu diễn ra quyết liệt, nhất là từ tháng 9 đến tháng 11-1977. Quân khu 7 vừa tổ chức lực lượng bảo vệ biên giới, vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh địa bàn.

Cuối năm 1978, đầu năm 1979, theo đề nghị của lực lượng cách mạng Campuchia và thông suốt chỉ thị của trên, lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã cùng các đơn vị bạn phối hợp với các lực lượng cách mạng Campuchia tiến hành cuộc phản công truy kích bọn Pôn-pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Lúc này, để đáp ứng tình hình, theo quyết định của ĐUQSTW, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 được kiện toàn, do Trung tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh.

Sau khi Campuchia hoàn toàn giải phóng (ngày 7-1-1979), Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang hướng Tây Nam tiếp tục giúp Cách mạng Campuchia bảo vệ thành quả cách mạng.

Cùng với các Quân khu 5, 9 và một bộ phận lực lực luợng chủ lực của Bộ, LLVT Quân khu 7 liên tục 10 năm giúp Bạn đã làm tốt nhiệm vụ liên minh chiến đấu, giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, từng bước củng cố, xây dựng lực lượng đủ khả năng tự đảm đương nhiệm vụ của mình. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tháng 09-1989, các đơn vị thuộc QK7 (MT 479 và 779) cùng quân tình nguyện Việt Nam rút toàn bộ về nước.

Nhờ có sự giúp đỡ to lớn, chí tình của Quân tình nguyện Việt Nam, Bạn có đủ thế và lực để thực hiện một giải pháp có lợi cho sự ổn định và phát triển của đất nước Campuchia. Từ khi thực hiện tổng tuyển cử với sự giám sát của Liên hợp quốc (1991) đến nay, tình hình Campuchia ngày càng ổn định, an ninh biên giới được giữ vững, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển của 2 nước và cho cả khu vực.

Góp phần đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”của kẻ thù

Trong bối cảnh quốc tế sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện việc xóa bỏ các nước XHCN còn lại bằng chiến lược “DBHB”, “BLLĐ” kết hợp với răn đe tiến công quân sự, trong đó Việt Nam là một trọng điểm.

Thực tế trên địa bàn Quân khu 7 từ năm 1990 đến nay địch tập trung đánh phá ta bằng nhiều phương tiện và thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Bọn phản động đã dựa vào một số khuyết điểm và nhược điểm của ta trong việc thực hiện chính sách và một bộ phận cán bộ thoái hoá biến chất rồi khuếch đại, gây mối nghi ngờ giữa quần chúng với Đảng, chính quyền và quân đội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào Nhà nước và chế độ.

Trước tình hình trên, nhất là từ sau khi Quân tình nguyện ở Campuchia rút quân về nước, LLVT Quân khu 7 đã kịp thời tăng cường triển khai thực hiện các nhiệm vụ củng cố, xây dựng lực lượng, thực hành huấn luyện không ngừng nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, cùng các địa phương xây dựng các khu vực phòng thủ và thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh. LLVT Quân khu đã đoàn kết, phối hợp cùng các lực lượng Công an nhân dân và nhân dân các địa phương thực hiện các nhiệm vụ ngăn chặn, giải quyết các điểm nóng, kịp thời phát hiện, truy quét bọn Fulro và các nhen nhóm bạo loạn, làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, đảm bảo cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội của các tỉnh, thành vững chắc đi lên. Các lực lượng vũ trang QK càng ngày càng gắn bó với nhân dân các địa phương, phát huy truyền thống và kinh nghiệm trong quá khứ, ra sức xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân, trong đó chú trọng xây dựng các tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế và quốc phòng ngày càng phát triển vững chắc./.

Tư lệnh, Chính ủy (phó Tư lệnh Chính trị) quân khu qua các thời kỳ: Tư lệnh QK7 (Phân Liên khu miền Đông, Ban QS miền Đông Nam bộ): Nguyễn Bình (1945-1948); Huỳnh Văn Nghệ (1948-1949); Trần Văn Trà (1950-1951), (1951-1954), (1976-1978); Nguyễn Hữu Xuyến (1958-1961), (1961-1963); Nguyễn Văn Bứa (1963-1967), (1972-1974); Lương Văn Nho (1968-1971); Lê Văn Ngọc (1974-1975); Lê Đức Anh (1978-1979); Đồng Văn Cống (1979-1982); Nguyễn Minh Châu (1982-1987); Nguyễn Thới Bưng (1988-1989); Bùi Thanh Vân (1989-1994); Đỗ Quang Hưng (1994-1995); Lê Văn Dũng (1995-1997); Phan Trung Kiên (1998-2002); Nguyễn Văn Chia (2003-2004); Lê Mạnh (2005-2009); Triệu Xuân Hòa (2009- nay). Tư lệnh QK Sài Gòn-Chợ Lớn, Sài Gòn-Gia Định: Tô Ký (1948-1949); Trần Văn Trà (1949-1950); Nguyễn Văn Thi (1050-1951); Trần Hải Phụng (1961-1965), (1972-1974); Trần Đình Xu (1965-1967); Trần Văn Phú (1974-1975); Trần Mân. Chính ủy, Phó Tư lệnh Chính trị Quân khu 7 (Phân Liên khu miền Đông, Ban QS miền Đông Nam bộ): Trần Xuân Độ (1945-1946); Nguyễn Văn Trí (1946-1949); Phan Trọng Tuệ (1949-1950); Trần Văn Trà (1950-1951), (1976-1978); Phạm Hùng (1951-1954); Mai Chí Thọ (1958-1960); Nguyễn Việt Hồng (1961-1964); Nguyễn Ngọc Tân (1964-1967); Huỳnh Chí Mạnh, Lê Đình Nhơn (1968-1971); Trần Nam Trung (1972-1974); Dương Cự Tẩm (1974-1975), (1980-1987); Lê Đức Anh (1978-1979); Nguyễn Xuân Hòa (1987-1993); Lê Thành Tâm (1993-2004); Nguyễn Thành Cung (2004-nay). Chính ủy QK Sài Gòn-Chợ Lớn, Sài Gòn-Gia Định: Phan Trọng Tuệ (1948-1949); Trần Văn Trà (1949-1950); Nguyễn Văn Linh (1950-1954), (1966-1967); Nguyễn Hồng Đào (1961-1962); Võ Văn Kiệt (1962-1965); Nguyễn Văn Bảo (1965-1966); Mai Chí Thọ (1972-1973); Lê Thanh (1973-1974); Mai Văn Chút (1974-1975).