Hạt Nhân Của Phép Biện Chứng Duy Vật, Phép Biện Chứng Duy Vật

hạt nhân của phép biện chứng duy vật
hạt nhân của phép biện chứng duy vật

1. Ngược lại là gì? Mâu thuẫn biện chứng là gì? Thế nào là sự thống nhất của các mặt đối lập?

Trước khi đi vào nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các uan. đối lập, chúng tôi sẽ đề cập đến một số khái niệm liên quan.

Thứ nhất: Bên đối diện Mặt đối lập là những cái có những đặc điểm, thuộc tính đối lập, quy định xu hướng biến đổi và tồn tại khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong mọi sự vật.

Thứ hai: Mâu thuẫn biện chứng Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái trong đó các mặt đối lập có quan hệ và tác động lẫn nhau. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Những mâu thuẫn biện chứng của tư tưởng là sự phản ánh những mâu thuẫn của hiện thực và là nguồn gốc của sự phát triển nhận thức. Chúng ta phải phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn logic hình thức. Mâu thuẫn logic hình thức chỉ tồn tại trong suy nghĩ, xuất hiện do sai lầm trong suy nghĩ.

Thứ ba: Sự thống nhất của các mặt đối lập Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự phụ thuộc lẫn nhau, là sự tồn tại không thể tách rời giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không thể tách rời nhau nên giữa chúng luôn tồn tại những yếu tố giống nhau. Các yếu tố giống nhau là “bản sắc” của các mặt đối lập. Do sự thống nhất của các mặt đối lập trong sự phát triển của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.

Thứ tư: Sự đấu tranh của các mặt đối lập: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại lẫn nhau theo nghĩa loại trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt này. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng và phụ thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.

2. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

Nội dung của Luật thống nhất đấu tranh giữa các mặt đối lập được trình bày chi tiết như sau: Thứ nhất: mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập: Trong sự thống nhất thì ngược lại; trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong sự quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập luôn có xu hướng phát triển ngược chiều nhau, chống lại nhau. Cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia thành nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ mâu thuẫn, đối lập nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển đến một mức độ nhất định thì lại nảy sinh mâu thuẫn. Lúc này các mặt đối lập có xu hướng đối lập, loại bỏ và phủ định lẫn nhau. Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn giữa sự vận động và phát triển: Kể từ khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, các cấp độ của chủ nghĩa xã hội đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì khá lâu dài và được coi là nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, đối lập với kinh tế thị trường. Các nước tư bản chủ nghĩa cũng vận dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng sớm xóa bỏ ngay sau chiến tranh và đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội. Nhưng kinh tế thị trường vẫn nảy sinh nhiều mâu thuẫn đang tồn tại. Thứ ba: tính khách quan, phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn): Một điều mà chúng ta dễ dàng nhận thấy là mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn khác nhau nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng đó luôn có mối liên hệ phổ biến với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là khách quan do cái vốn có của các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến là do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong mọi lĩnh vực. . Vì sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến nên chúng rất đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mọi thứ và trong mọi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mọi hiện tượng không chỉ có mâu thuẫn ở một mức độ nhất định, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đạt đến một mức độ nhất định thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới nảy sinh và một quá trình mới hình thành, khiến sự vật không ngừng vận động và phát triển. Thứ tư: Đặc trưng của kinh tế thị trường dưới góc độ triết học: Về tổng thể, nền kinh tế của thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nếu cứ để tự phát, kinh tế nhiều thành phần sẽ dẫn đến chủ nghĩa tư bản. Nhưng có đấu tranh thì định hướng xã hội chủ nghĩa mới giữ được. Đó là một quá trình khó khăn và phức tạp, đặc biệt đối với Việt Nam, nơi sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước quyết định trực tiếp các vấn đề kinh tế, xã hội. Hiện nay, cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường đang ở giai đoạn mới hình thành nên còn thiếu và chưa đồng bộ dẫn đến môi trường sản xuất kinh doanh không ổn định, nguy hiểm. Sự mơ hồ, thiếu định nghĩa ở cả hai khía cạnh kinh tế – xã hội dường như là điều rất phổ biến, rất đặc trưng của các mối quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Vì vậy, quá trình biến đổi này vấp phải nhiều mâu thuẫn nội tại.

3. Ví dụ về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Trong mọi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ với nhau hoặc tạo tiền đề cùng tồn tại mà triết học gọi là sự thống nhất của các mặt đối lập. Ví dụ, trong hoạt động kinh tế, sản xuất và tiêu dùng sẽ diễn biến ngược chiều nhau. Sản xuất là việc tạo ra của cải vật chất, ra sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Và tiêu dùng là mục tiêu cuối cùng của sản xuất, mọi sản phẩm sản xuất ra đều cần đến người tiêu dùng. Sản xuất là việc tạo ra một sản phẩm và một đối tượng có thể được cung cấp cho tiêu dùng. Nếu không có quy trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không có tiêu dùng. Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng tiêu dùng, nó không phải là đối tượng chung mà đối với những đối tượng nhất định do mình sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng. Vì vậy, sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà còn quyết định phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi một sản phẩm được sản xuất thì nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó mới được tạo ra. Vì vậy, có thể thấy sản xuất và tiêu dùng là sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng có những tính chất giống nhau và quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng tiến bộ.