Quyền ứng cử là gì? Quyền ứng cử, bầu cử của công dân Việt Nam được thực hiện bằng con đường nào?

1.Ứng cử là gì? Quy định về quyền ứng cử, quyền bầu cử của công dân Việt Nam ?

Ứng cử là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo đảm để công dân ghi tên vào danh sách những người ứng cử để được ứng cử trong cuộc bầu cử với tư cách là đại biểu của cơ quan dân cử, người đứng đầu cơ quan nhà nước. các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội. Công dân khi đủ tuổi theo quy định của pháp luật được thực hiện quyền bầu cử và ứng cử theo quy định của pháp luật. Bầu cử và ứng cử là quyền cơ bản của công dân được ghi trong Hiến pháp. Ứng cử là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo đảm để công dân ghi tên vào danh sách những người ứng cử để được ứng cử trong cuộc bầu cử với tư cách là đại biểu của cơ quan dân cử, người đứng đầu cơ quan nhà nước. các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội.

Khi có nguyện vọng ứng cử và có đủ các điều kiện theo quy định, công dân có thể nộp hồ sơ ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử.

Những người không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân bao gồm:

– Người dưới 21 tuổi.

Người đang bị bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án tước quyền ứng cử, người đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.

– Người bị khởi tố là bị can. – Người đang chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án.

– Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Toà án nhưng chưa được xoá án tích.

Người đang bị xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc hoặc giáo dục tại thị xã, quận, huyện.

Người ứng cử là người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương hoặc địa phương giới thiệu để xem xét, đưa vào danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Người tự ứng cử là người có đủ tư cách ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức chính quyền ở địa phương và tự coi mình là người ứng cử đại biểu Quốc hội. Hội đồng nhân dân. Người ứng cử nếu có đủ tiêu chuẩn, tư cách, năng lực muốn ứng cử thì nộp hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (trường hợp tự ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội). dân số tỉnh); bầu cử cấp huyện (trường hợp tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện); vào ủy ban bầu cử cấp xã (trường hợp tự ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã). Ứng viên tiếng Anh là Experiments. Ứng cử là một trong những quyền hiến định cơ bản của công dân, được pháp luật bảo đảm để công dân ghi tên vào danh sách những người ứng cử để được bầu cử làm đại biểu trong cơ quan dân cử hoặc chỉ đạo trong cơ quan, đoàn thể. và các tổ chức xã hội.

Ứng cử viên phải gửi yêu cầu tới cơ quan bầu cử của khu vực bầu cử, kèm theo yêu cầu nộp một số tiền ký quỹ nhất định. Hình thức này được áp dụng rộng rãi ở Nga, Pháp, Tây Ban Nha, v.v. Các ứng cử viên được đề cử bởi một nhóm cử tri. Để được đưa vào danh sách ứng cử viên, một ứng cử viên phải có được một số chữ ký nhất định từ cử tri.

Ví dụ, ở Vương quốc Anh, ứng cử viên Hạ nghị viện cần phải thu được ít nhất là 10 chữ ký của cử tri; ở Vương quốc Bỉ là từ 200 đến 500 chữ ký của cử tri (tùy thuộc vào số dân của đơn vị bầu cử mà người đó ra ứng cử), ứng cử viên vào Thượng nghị viện phải thu được ít nhất 100 chữ ký của cử tri tại đơn vị bầu cử; ở CHLB Đức, ứng cử viên vào Hạ nghị viện cần thu được 200 chữ ký của cử tri; ở Ba Lan, ứng cử viên vào Thượng nghị viện cần phải thu được ít nhất 3.000 chữ ký của cử tri…

2. Quy định về quyền ứng cử, quyền bầu cử của công dân Việt Nam:

*) Quyền tự ứng cử:

Theo quy định của Hiến pháp thì công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân. Việc thực hiện những quyền này được pháp luật quy định cụ thể.

Như vậy khi công dân đủ hai mươi mốt tuổi trở lên không phân biệt dân tộc, nam nữ, tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ văn hóa, nghề nghiệp khi đủ 21 tuổi trở lên đều sẽ có quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân theo quy định.

Người tự ứng cử là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện ứng cử đại biểu quốc hội hoặc đáp ứng đủ các điều kiện ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và thấy mình có đầy đủ các tiêu chuẩn, có năng lực, trình độ và có nguyện vọng ứng cử thì có thể nộp hồ sơ ứng cử tại ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp tự ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trình Ủy ban bầu cử cấp huyện trong trường hợp công dân đã tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện; nộp hồ sơ tại Ủy ban bầu cử cấp xã đối với trường hợp công dân ứng cử là đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.

Như vậy, mọi công dân khi đã đủ tuổi thì không có quyền tự ứng cử, tuy nhiên công dân phải thực hiện đầy đủ các điều kiện theo quy định và không thuộc trường hợp không được ứng cử thì mới được ứng cử theo quy định của pháp luật.

*) Quyền bầu cử của công dân Việt Nam:

Quyền bầu cử là quy định của pháp luật liên quan đến việc công dân thực hiện quyền lựa chọn người đại diện của mình trong các cơ quan quyền lực nhà nước.

Quyền bầu cử bao gồm đề cử, đề cử người ứng cử và bầu cử, tức là quyền chủ động trong việc lựa chọn của công dân. Quyền ứng cử là quy định pháp luật xác định việc công dân có đủ điều kiện để bày tỏ nguyện vọng ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân hay không. Vào ngày công bố bầu cử, công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. .

Quyền bầu cử là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định nhằm bảo đảm mọi công dân đều có quyền lựa chọn những người đại diện của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.

Bầu cử là một nền dân chủ lâu đời. Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhân dân tổ chức nhà nước bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp bỏ phiếu bầu ra những người đại diện theo ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình, thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước; góp phần thành lập bộ máy nhà nước để thực hiện các hoạt động quản lý xã hội.

3. Một người có thể vừa ứng cử đại biểu Quốc hội vừa ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân được không?

Công dân chỉ được ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân tối đa ở hai cấp trong cùng một nhiệm vụ; nếu nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội thì chỉ được nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân một cấp. Như vậy, người đủ điều kiện có thể đồng thời gửi đơn đến Quốc hội, đồng thời gửi đơn đến Hội đồng nhân dân.

Hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân bao gồm:

– Thư xin việc ;

– Sơ yếu lý lịch có xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền;

– Tiểu sử tóm tắt;

– Ba ảnh màu chân dung cỡ 4cm x 6cm;

– Kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Mẫu các giấy tờ, văn bản nêu trên được lập theo hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia tại Nghị quyết số… ngày….

Chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử, người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (cả người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử) phải nộp hồ sơ ứng cử.

4. Những bất cập của luật bầu cử ở Việt Nam:

Để luật bầu cử đại biểu Quốc hội có hiệu lực, cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật cho phù hợp với thực tế. Theo quy định hiện hành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố ngày bầu cử chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử. Tuy nhiên, từ thực tiễn bầu cử đại biểu Quốc hội thời gian qua, cần nghiên cứu quy định công bố ngày bầu cử sớm hơn và phân bổ lại thời gian cho từng khâu công việc một cách hợp lý để bảo đảm tốt các điều kiện vật chất. cũng như chất lượng công tác chuẩn bị bầu cử.

Hiện nay, các quy định về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bầu cử còn thiếu chính xác, cụ thể, nhất là về trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức… Quá trình lấy ý kiến ​​gặp khó khăn, thậm chí xuất hiện khiếu nại, tố cáo về tư cách của ứng viên. Hơn nữa, luật cũng không quy định tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể để tự ứng cử. Vì vậy, cần hoàn thiện pháp luật về bầu cử theo hướng cụ thể hóa tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tiêu chuẩn đại biểu tự cử, bổ sung quy định về cơ cấu đại biểu tự cử, từ đó đưa ra tiêu chí đánh giá, xem xét từng tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật.

Luật bầu cử quy định mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội không được bầu quá 03 đại biểu, đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân không được bầu quá 05 đại biểu đã dẫn đến tình trạng mỗi tỉnh bầu một số đại biểu. , thành phố trực thuộc trung ương không thống nhất.

Đồng thời, quy định về số dư người ứng cử không giống nhau dẫn đến việc bầu cử thiếu công bằng giữa những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân ở các đơn vị bầu cử có số lượng người được bầu khác nhau. Vì vậy, cần quy định rõ hơn nguyên tắc về số lượng đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở mỗi đơn vị với ý nghĩa bảo đảm sự thống nhất về số lượng, nhất là về số dư cho cuộc bầu cử.