Vấn đề 1: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa. Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính
- TT Nghiên cứu và Nuôi trồng Dược liệu Quốc gia – Vietfarm
- Hình thức đấu tranh kinh tế của công nhân Việt Nam trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất là A. Chống cúp phạt lư… – Olm
- Bí quyết luộc trứng vịt lộn mềm thơm, ngọt nước, để lâu vẫn không tanh
- Bính Thìn 1976 hợp màu gì và cách gia tăng tài lộc, giải trừ tai họa trong Nhâm Dần 2023
- Thành phần bản thân hiện nay trong sơ yếu lý lịch viết như thế nào?
* Khái niệm Hàng hóa: Hàng hóa là một sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua – bán. * Hàng hóa có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và Giá trị
Bạn đang xem: Vấn đề 1: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa. Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính
a. Giá trị sử dụng của hàng hóa
– Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn một hay một số nhu cầu nào đó của con người. – Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn một hay một số nhu cầu nào đó của con người. Những công dụng đó được gọi là tính có ích của hàng hóa. – Giá trị sử dụng của hàng hóa là nội dung vật chất của của cải vì nó do thuộc tính tự nhiên (lý, hóa học) của thực thể hàng hoá đó quyết định. – Giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ thuộc vào sự sự thay đổi của phương thức sản xuất. – Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp để lợi dụng chúng đó đó số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tốt. – Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện khi nó được tiêu dùng hay sử dụng. Nếu hàng hóa chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng. Để giá trị sử dụng ở dạng tiềm năng trở thành giá trị sử dụng hiện thực thì hàng hóa đó cần được tiêu dùng.
Xem thêm:
- Trình bày 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
- Khái niệm tư bản, tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản cố định và tư bản lưu động
– Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì nó không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội thông qua hoạt động trao đổi, mua bán.
b. Giá trị hàng hóa
– Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi. – Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. – Khái niệm: Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. (Điều này có nghĩa là 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5kg thóc) – Vấn đề đặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trị sử dụng lại trao đổi được cho nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định? + Cái chung đó không thể là giá trị sử dụng vì hai loại hàng hóa này có công dụng hoàn toàn khác nhau (vải để mặc, thóc để ăn). Và sự khác nhau đó chỉ là điều kiện cần thiết để sự trao đổi xảy ra vì không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt nhau về giá trị sử dụng. + Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vậy, thực chất người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong trong những hàng hóa đó.
Bạn đã biết: Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị
► Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy là cơ sở chung cho mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa. – Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh trong hàng hóa Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Tức là, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. – Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi hàng hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa. Quan hệ giữa người với người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật (hàng – hàng). – Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có sản xuất hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa.
– Kết luận: + Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. + Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm không chứa đựng lao động thì không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo ra thì có giá trị cao. Lượng giá trị là biểu hiện lượng lao động kết tinh trong hàng hóa. Lượng lao động kết tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. + Giá trị là một phạm trù lịch sử.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong một hàng hoá.
Xem thêm : Bố mẹ tuổi Canh Ngọ nên sinh con năm nào & những lưu ý đắt giá
– Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể thấy một vật có ích tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là không có lao động xã hội kết tinh trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như: không khí, ánh nắng mặt trời…
– Mặt mâu thuẫn: + Thứ nhất, với tư cáchlà một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất vì mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá. + Thứ hai, tuy giá trị và giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau về thời gian và không gian. Cụ thể là giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Nếu không thực hiện được giá trị hàng hoá (hàng hóa không bán được) thì không thực hiện được giá trị sử dụng có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”.
– Vấn đề liên quan: Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.
* Vì sao phải nghiên cứu giá trị bắt đầu từ giá trị trao đổi?
Giá trị là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa nên ta không xác định trực tiếp được. Ta chỉ có thể xác định, đo lường nó thông qua một hàng hóa khác. Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc ►5kg thóc đo gía trị cho 1 m vải Do đó ta luôn phải xác định tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác ►hay nói cách khác, chúng ta đang xác định giá trị trao đổi để xác định giá trị.
* Vì sao Hàng hóa có 2 thuộc tính
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a. Lao động cụ thể – Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. – Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích riêng, công cụ lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả lao động riêng ► tạo ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.
b. Lao động trừu tượng – Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình thức cụ thể của nó, để quy về một cái chung nhất, đó chính là sự tiêu hao sức lao động ( tiêu hao bắp thịt, thần kinh, bộ óc) của người lao động sản xuất hàng hóa nói chung. – Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị. + Chỉ có lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng và tạo ra giá trị hàng hóa. + Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa. Tất nhiên không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.
– Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. + Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ trở thành việc riêng, mang tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. + Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ phận của lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm cho lao động của người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho nhau, người này làm việc vì người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao động cụ thể mà phải quy thành lao động đồng nhất là lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Xem lại bài trước: Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị
Lượng giá trị hàng hóa và Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Xem thêm : Không đói nhưng bụng thường xuyên kêu “ọc ọc” có thể là dấu hiệu của 4 bệnh này
Giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó Như vậy: – VỀ MẶT CHẤT, giá trị của hàng hóa được xác định bởi hao phí lao động để sản xuất hàng hóa đó quyết định. Giá trị của hàng hóa = lao động vật hóa + lao động sống = lao động quá khứ + lao động hiện tại = Gtrị tư liệu sản xuất + Gtrị mới do công nhân tạo ra – VỀ MẶT LƯỢNG: giá trị của hàng hóa được tính theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
a. Thời gian lao động xã hội cần thiết – Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một sản xuất một hàng hóa nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động của họ khác nhau nên thời gian lao động cá biệt khác nhau để tạo ra một hàng hóa không giống nhau nhau (nghĩa là hao phí lao động cá biệt khác nhau). – Vậy, có phải rằng người sản xuất nào càng lười biếng, càng vụng về, có điều kiện sản xuất càng khó khăn thì lượng giá trị hàng hóa của họ càng lớn? Điều này không đúng vì sự khác nhau trên chỉ là sự khác nhau về chi phí lao động cá biệt của mỗi cá nhân trong khi giá trị hàng hóa không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (giá trị xã hội của hàng hóa).
– Khái niệm: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động trung bình, cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ trang thiết bị sản xuất trung bình, trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình.
– Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết là mức hao phí lao động trung bình của xã hội để sản xuất ra một hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết (thời gian lao động xã hội trung bình) gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp tuyệt đại đa số hàng hóa cùng loại trên thị trường.
– Cần chú ý, thời gian lao động cần thiết là đại lượng không cố định mà thay đổi theo thời gian và có thể khác nhau ở các nước. Bởi vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình…luôn thay đổi theo sự phát triển lực lượng sản xuất.
– Xem lại bài viết: Vấn đề Cách mạng xã hội chủ nghĩa
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa Tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa. Có thể xem xét ba yếu tố cơ bản sau:
– Năng suất lao động: + Là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian (hoặc lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm). + Giá trị hàng hóa thay đổi tỉ lệ nghịch với năng suất lao động: khi năng suất lao động tăng sẽ kéo theo tổng số sản phẩm tăng lên, tổng giá trị hàng hóa không tăng so với trước ► giá trị một đơn vị sản phẩm giảm xuống và ngược lại. + Năng suất lao động trên thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ thành thạo trung bình của người lao động; mức phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ và mức ứng dụng chúng vào sản xuất; trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; các điều kiện tự nhiên. Do đó, muốn tăng năng suất cần nâng cao hiệu quả của các yếu tố trên.
– Cường độ lao động: + Là mức độ hao phí lao động (mức độ nặng nhọc, khẩn trương hay căng thẳng) của người lao động trong một đơn vị thời gian. + Cường độ lao động tăng nghĩa là mức hao phí sức lao động (cơ bắp, thần kinh…) trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Và nếu cường độ lao động tăng lên thì tổng số (hay khối lượng) hàng hoá cũng tăng lên nhưng tổng hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng cùng tỉ lệ. Do đó, giá trị một đơn vị sản phẩm không thay đổi. Vậy, trong thực tế, tăng cường độ lao động giống như kéo dài thời gian lao động nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi. + Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động.
– Mức độ phức tạp của lao động: Căn cứ theo độ phức tạp có thể chia ra lao động phức tạp và lao động giản đơn. + Lao động giản đơn là lao động mà một người bình thường không cần trải qua đào tạo cũng có thể làm được. + Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải qua huấn luyện, đào tạo, hay lao động lành nghề mới có thể thực hiện đuợc. Trong cùng một thời gian hao phí như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị lớn hơn gấp bội lần lao động giản đơn.
Bạn có thể xem lại toàn bộ câu hỏi và đáp án chi tiết của môn Chủ nghĩa Mac – Lênin tại: Ngân hàng đề thi môn chủ nghĩa Mac – Lenin
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp