Họ Lý hiện nay ở Việt Nam rất ít mà nguyên nhân chính là do nhà Trần, khi mới lên ngôi đã sử dụng luật pháp để ép người mang họ Lý phải đổi sang họ khác.
Nhà Lý là một triều đại quan trọng trong lịch sử Việt Nam kéo dài suốt 200 năm. Triều đại này đã đóng góp nhiều danh nhân kiệt xuất cho dân tộc, và ngày nay, tên của những danh nhân này vẫn được lưu truyền qua tên các đường phố.
Bạn đang xem: Tại sao họ Lý ở Việt Nam lại ít? Tìm hiểu về hoàng tộc họ Lý
Sự ảnh hưởng của Trần Thủ Độ và việc đổi họ
Trong giai đoạn đầu của triều đại Trần, Trần Cảnh khi còn nhỏ, tất cả quyền hành đều nằm trong tay Trần Thủ Độ, người có vai trò như một quyền thần của Trần Cảnh. Trong thời gian này, Trần Thủ Độ đã thực hiện một hành động trực tiếp ảnh hưởng đến tên họ của người Việt.
Đó là trong thời Trần Thái Tông (1232), sau khi lấy lại ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ đã bắt buộc tất cả những người mang họ Lý, là họ của dòng vua vừa bị thay thế, phải đổi thành họ Nguyễn. Mặc dù ý đồ của Trần Thủ Độ là loại bỏ hoàn toàn dòng họ Lý để không ai nhớ đến, nhưng vẫn chưa rõ lý do ông chọn họ Nguyễn để thay thế.
Việc đổi họ đã trở thành một phong tục trong lịch sử cổ đại của người Việt Nam. Mỗi khi một triều đại mới được thay thế, tất cả những người mang họ của triều đại trước đều phải thay đổi họ thành Nguyễn.
Điều này đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử Việt Nam, dẫn đến sự gia tăng số người mang họ Nguyễn. Đến ngày nay, có hơn 40% dân số Việt Nam mang họ Nguyễn.
Nhà Trần và việc kỵ húy chữ Lý
Nhà Trần là triều đại đầu tiên tham gia vào cuộc chơi kỵ húy, không phải vì muốn học theo nhà Tống, mà coi đó như một chiêu thuật chính trị để làm cho dòng họ Lý rơi vào quên lãng.
Một điểm trùng hợp quan trọng là ông nội của Trần Thái Tông mang tên Lý, điều này tạo điều kiện thuận lợi để ép người mang họ Lý chuyển sang họ Nguyễn. Không chỉ những người mang họ Lý phải đổi họ, mà cả các vua Lý và danh tướng Thường Kiệt cũng phải thay đổi họ.
Xem thêm : Nhổ răng khôn chỉ tự tiêu cần bao nhiêu thời gian tiêu huỷ?
Trong sách Đại Việt sử lược của thời Trần, triều đại Lý được viết là triều Nguyễn, vua Lý được gọi là vua Nguyễn. Ví dụ: “Vua Thái Tổ, tên húy là Uẩn, họ Nguyễn, người ở Cổ Pháp thuộc Bắc Giang” hoặc “Mùa hạ, tháng 4, Nguyên soái Nguyễn Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp” (Lý Thường Kiệt, nguyên họ Ngô, được vua Lý thay đổi thành họ Nguyễn).
Vậy tại sao nhà Trần lại cố gắng kỵ húy chữ Lý một cách nghiêm ngặt như vậy, trong khi vẫn có tướng mang họ Lý phục vụ cho nhà Trần (theo lời sử gia Ngô Sĩ Liên), hoặc như trạng nguyên Lý Đạo Tái thời Trần Thánh Tông? Có thể tin rằng việc kỵ húy chữ Lý chỉ được thực hiện một cách nghiêm ngặt trong giai đoạn ban đầu, khi nhà Trần chưa đạt được sự vững chắc và vẫn lo sợ lòng nhân dân hướng về dòng họ Lý, lo ngại rằng nếu có ai đó mang họ Lý nổi lên, sẽ gây phiền toái.
Tuy nhiên, sau này, nhà Trần đã xác lập một vị thế vững chắc trong lòng người dân, đặc biệt sau 3 đời vua Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông, những vị lãnh đạo đã dẫn dắt quân dân cả nước đánh tan quân xâm lược nhà Nguyên ba lần. Khi đó, việc kỵ húy chữ Lý không còn bị kiểm soát nghiêm ngặt nữa.
Thậm chí, Trần Anh Tông đã sử dụng việc kỵ húy để tôn vinh họ Lý, là họ của vua Trần và Trần Thánh Tông, vì Trần Thánh Tông là cháu ngoại của vua Lý Huệ Tông. Vào tháng 9 năm 1304, Trần Anh Tông ra chiếu cấm viết 8 chữ miếu húy nhà Lý: Uẩn (Lý Công Uẩn), Mã (Lý Phật Mã), Tôn (Lý Nhật Tôn), Đức (Lý Càn Đức), Hoán (Thần Tông Lý Dương Hoán), Tộ (Anh Tông Lý Thiên Tộ), Cán (Cao Tông Lý Long Cán), Sảm (Huệ Tông Lý Hạo Sảm).
Trong số các vị vua Trần, Trần Anh Tông là người tích cực nhất trong việc áp dụng chính sách kỵ húy. Trong 8 điều lệnh kiêng húy nhà Trần ghi chép lại, có tới 5 lệnh do Trần Anh Tông ban.
Vua Trần Anh Tông cũng sử dụng việc kỵ húy để tôn vinh một nhân vật gây tranh cãi trong họ Trần là Trần Liễu. Dù Trần Liễu đã trải qua thất bại sau cuộc nổi loạn ở sông Cái, nhưng Trần Anh Tông lại là hậu duệ trực tiếp của ông (bà nội của Trần Anh Tông, hay mẹ của Trần Nhân Tông, là con gái của Trần Liễu). Vua Trần Anh Tông còn ban lệnh cấm tên húy của cả các thái hậu trước đó và cha vợ (Trần Quốc Tảng).
Họ Lý Việt Nam tại hàn Quốc
Trong một bộ phim tài liệu, ông Lý Xương Căn, hậu duệ đời thứ 25 của Hoàng thúc Lý Long Tường, đến thăm mộ bố – cụ Lý Anh Huân, người đầu tiên trong dòng họ đã hoàn thành tâm nguyện được yên nghỉ trên đất Việt Nam.
Ông Lý Xương Căn là một hậu duệ của Hoàng tộc triều Lý Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong dòng họ này, có một cuốn tộc cổ được lưu truyền từ đời này sang đời khác, giúp họ xác định nguồn gốc xuất thân của mình, biết ông cha mình là ai và từ đâu đến.
Ước nguyện của ông tổ: Trở về quê hương
Xem thêm : Cách tra cứu điểm, kết quả học tập vnEdu cho phụ huynh, học sinh
Hoàng thúc Lý Long Tường, ông tổ của dòng họ Lý Hoa Sơn tại Hàn Quốc, để lại một ước nguyện trong cuốn tộc cổ. Ông mong muốn con cháu của mình sẽ có thể trở về quê hương, một ước mơ mà ông tổ không thể thực hiện trong cuộc đời.
Đây cũng là ước nguyện ám ảnh các hậu duệ của dòng họ Lý Hoa Sơn suốt gần 8 thế kỷ. Tuy nhiên, chính sử Việt Nam không đề cập đến nhân vật Lý Long Tường, khiến câu chuyện của ông vô tình rơi vào quên lãng.
Năm 1994 tại Đền Đô, Bắc Ninh, một sự kiện lịch sử diễn ra khi ông Lý Xương Căn, hậu duệ đời thứ 32 của vua Lý Thái Tổ và hậu duệ đời thứ 25 của Lý Long Tường, đến thờ tổ tiên triều Lý. Ông dâng lên cuốn tộc cổ và truyền đạt lại tâm nguyện của ông tổ dòng họ Lý Hoa Sơn Hàn Quốc, mong muốn hướng về quê hương.
Đây là một bước ngoặt quan trọng, tạo dấu ấn lịch sử. Càng ngày, ngày càng nhiều các hậu duệ dòng họ Lý Hoa Sơn trở về Việt Nam, được thu hút bởi câu chuyện của Hoàng thúc Lý Long Tường, tình cảm và tình yêu với quê hương.
Sứ mệnh trở về và quyết tâm gắn bó
Ông Lý Xương Căn, sau 6 năm trở về Việt Nam lần đầu tiên, đã đưa ra một quyết định lịch sử – trở về sinh sống tại Việt Nam. Sau 16 năm kể từ lần đầu tiên trở về, ông đã được nhập quốc tịch Việt Nam.
Hành trình quay về Việt Nam của các hậu duệ dòng họ Lý ngày càng phát triển. Họ thấm nhuần nghĩa của ước nguyện trở về cố hương, nhưng mỗi người lại thực hiện theo cách riêng, như ông Lý Thường Hiệp, Lý Hi Uyên và nhiều người khác.
Ông Lý Xương Căn không chỉ tạo lập kinh tế bền vững cho gia đình tại Việt Nam, mà còn nuôi ý tưởng giúp ích cho cộng đồng. Ông đã được bổ nhiệm là đại sứ du lịch Việt Nam tại Hàn Quốc và mong muốn thúc đẩy du lịch giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Sự trở về của ông Lý Xương Căn không chỉ mang ý nghĩa cá nhân, mà còn đóng góp vào sự phát triển của cả hai quốc gia.
Tổng hợp bởi Duan24h.net
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp