TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG KHI XẢY RA TAI NẠN LAO ĐỘNG LÀ GÌ?

An toàn lao động luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của NLĐ và NSDLĐ. Thực tế vẫn tồn tại những bất cập trong công tác an toàn lao động gây nên nhiều vụ tai nạn lao động trong quá trình làm việc. Vậy với những trường hợp không may trên, người sử dụng lao động sẽ chịu trách nhiệm như thế nào? Hãy cùng Kiểm Định 6 tìm hiểu qua bài viết sau:

Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Nguyên nhân của tai nạn lao động chủ yếu là do an toàn lao động không đảm bảo hoặc do các nguồn nguy hiểm trong sản xuất gây ra.

Theo quy định của Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 của Việt Nam thì NSDLĐ phải có các trách nhiệm sau đây:

– Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;

– Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động như sau:

+ Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế;

+ Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa;

+ Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế;

– Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động;

– Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra;

Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động theo quy định pháp luật;

– Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người;

– Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc;

– Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động theo quy định tại Mục 3 Chương III Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015.

Người lao động không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động quy định tại Điều 38 và Điều 39 của Luật này nếu bị tai nạn thuộc một trong các nguyên nhân sau:

– Do mâu thuẫn của chính nạn nhân với người gây ra tai nạn mà không liên quan đến việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động;

– Do người lao động cố ý tự hủy hoại sức khỏe của bản thân;

– Do sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác trái với quy định của pháp luật

Như vậy, NSDLĐ ngoài các trách nhiệm như kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho NLĐ bị tai nạn lao động cũng như làm hồ sơ để NLĐ được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm của nhà nước Việt Nam thì NSDLĐ còn phải chi trả cho NLĐ chi phí y tế, tiền lương, tiền bồi thường…