Công ty đa quốc gia là gì? Đặc điểm, phân loại và ví dụ? Công ty đa quốc gia là gì?

Công ty đa quốc gia là gì? Tập đoàn đa quốc gia tên tiếng anh là the multinational Corporation – MNC. Đặc điểm, phân loại và ví dụ? Doanh nghiệp đa quốc gia (MNE) là một pháp nhân sở hữu và kiểm soát việc sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ tại ít nhất một quốc gia không phải quốc gia của mình. Kiểm soát được coi là một khía cạnh quan trọng của các tập đoàn đa quốc gia, để phân biệt chúng với các tổ chức đầu tư danh mục đầu tư quốc tế, chẳng hạn như một số quỹ tương hỗ quốc tế đầu tư vào các công ty nước ngoài chỉ đơn giản là để đa dạng hóa rủi ro tài chính. Mục lục của bài viếtẨn Đầu tiên. Công ty đa quốc gia là gì? 2. Đặc điểm, phân loại và ví dụ:

Một tập đoàn đa quốc gia (MNC) có các cơ sở và tài sản khác ở ít nhất một quốc gia không phải là quốc gia sở tại. Một công ty đa quốc gia thường có văn phòng và/hoặc nhà máy ở các quốc gia khác nhau và một trụ sở chính tập trung để điều phối hoạt động quản lý tổng thể. Một số công ty này, còn được gọi là tổ chức quốc tế, không quốc tịch hoặc xuyên quốc gia, có thể có ngân sách vượt quá ngân sách của một số quốc gia nhỏ hơn. – Các tập đoàn đa quốc gia kinh doanh tại hai quốc gia trở lên. Các công ty đa quốc gia có thể có tác động kinh tế tích cực đối với quốc gia nơi hoạt động kinh doanh diễn ra. Nhiều người tin rằng sản xuất bên ngoài Hoa Kỳ có tác động tiêu cực đến nền kinh tế với ít cơ hội việc làm hơn. Kinh doanh xuyên quốc gia được coi là sự đa dạng hóa các khoản đầu tư. Tập đoàn đa quốc gia tên tiếng anh là the multinational Corporation – MNC.

2. Đặc điểm, phân loại và ví dụ:

– Cách thức hoạt động của một công ty đa quốc gia (MNC):

Tập đoàn đa quốc gia, hay doanh nghiệp đa quốc gia, là một công ty quốc tế có hoạt động kinh doanh trải dài từ hai quốc gia trở lên. Một số cơ quan chức năng coi bất kỳ công ty nào có chi nhánh ở nước ngoài là công ty đa quốc gia; những người khác giới hạn định nghĩa cho các công ty tạo ra ít nhất một phần tư doanh thu của họ bên ngoài quốc gia xuất xứ của họ. Nhiều công ty đa quốc gia có trụ sở tại các nước phát triển. Những người ủng hộ các công ty đa quốc gia tuyên bố rằng họ tạo ra việc làm được trả lương cao và hàng hóa công nghệ tiên tiến ở các quốc gia mà nếu không sẽ không có cơ hội hoặc sản phẩm như vậy. Tuy nhiên, những người chỉ trích các công ty này tin rằng các công ty này gây ảnh hưởng chính trị quá mức đối với các chính phủ, bóc lột các nước đang phát triển và gây mất việc làm ở đó. Lịch sử của các công ty đa quốc gia gắn liền với lịch sử của chủ nghĩa thực dân. Nhiều công ty đa quốc gia đầu tiên được lệnh của các quốc vương châu Âu cho phép tiến hành các cuộc thám hiểm. Nhiều thuộc địa không do Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha nắm giữ đã được quản lý bởi một số tập đoàn đa quốc gia đầu tiên trên thế giới. Một trong những công ty đầu tiên xuất hiện vào năm 1600: Công ty Đông Ấn Anh, tham gia vào thương mại và thăm dò quốc tế, đồng thời điều hành các trạm giao dịch ở Ấn Độ. Các ví dụ khác bao gồm Công ty Thụy Điển Châu Phi, được thành lập vào năm 1649 và Công ty Vịnh Hudson, được thành lập vào thế kỷ 17. – Các loại MNC: Có bốn loại MNC. Bao gồm các:

Một công ty phi tập trung có sự hiện diện mạnh mẽ ở nước sở tại. Một công ty toàn cầu tập trung đạt được lợi thế về chi phí khi có sẵn các nguồn lực giá rẻ. Một công ty toàn cầu được thành lập dựa trên nghiên cứu và phát triển của công ty mẹ. Một công ty xuyên quốc gia sử dụng cả ba loại. Có sự khác biệt nhỏ giữa các loại công ty đa quốc gia khác nhau. Ví dụ, một công ty xuyên quốc gia – thuộc loại hình đa quốc gia – có thể đặt trụ sở chính tại ít nhất hai quốc gia và mở rộng hoạt động tại nhiều quốc gia để đạt được phản ứng cao tại địa phương. Nestlé S.A. là một ví dụ về công ty xuyên quốc gia đưa ra các quyết định kinh doanh và hoạt động bên trong và bên ngoài trụ sở chính. Trong khi đó, một công ty đa quốc gia kiểm soát và điều hành các nhà máy ở ít nhất hai quốc gia. Loại hình đa quốc gia này sẽ tham gia đầu tư nước ngoài, do công ty đầu tư trực tiếp vào các nhà máy ở nước sở tại để xác nhận quyền sở hữu, do đó tránh được chi phí giao dịch. Apple Inc. là một ví dụ điển hình của công ty đa quốc gia, khi công ty này cố gắng tối đa hóa lợi thế chi phí của mình thông qua đầu tư nước ngoài vào các nhà máy quốc tế. – Ưu nhược điểm của công ty đa quốc gia:

Có một số lợi thế để thiết lập các hoạt động quốc tế. Có sự hiện diện ở nước ngoài như Ấn Độ cho phép một công ty đáp ứng nhu cầu của Ấn Độ đối với các sản phẩm của mình mà không phải trả chi phí giao dịch liên quan đến vận chuyển đường dài. Các doanh nghiệp có xu hướng định vị ở những thị trường mà vốn của họ hiệu quả nhất hoặc tiền lương thấp nhất. Bằng cách sản xuất hàng hóa có chất lượng như nhau với chi phí thấp hơn, các công ty đa quốc gia giảm giá và tăng sức mua của người tiêu dùng trên toàn thế giới. Đã thiết lập hoạt động ở nhiều quốc gia khác nhau, một công ty đa quốc gia có thể tận dụng lợi thế của những thay đổi về thuế bằng cách chính thức đưa hoạt động kinh doanh của mình đến quốc gia có mức thuế thấp – ngay cả khi hoạt động kinh doanh của công ty được tiến hành ở nơi khác. Các lợi ích khác bao gồm kích thích tăng trưởng việc làm ở các nền kinh tế địa phương, tăng tiềm năng doanh thu thuế doanh nghiệp và mở rộng phạm vi tài sản. Sự đánh đổi của toàn cầu hóa – giá cả thấp hơn so với trước đây – là việc làm trong nước có nhiều khả năng chuyển ra nước ngoài. Điều này cho thấy rằng điều quan trọng đối với một nền kinh tế là phải có lực lượng lao động linh hoạt hoặc linh hoạt để những biến động trong điều kiện kinh tế không phải là nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp dài hạn. Về vấn đề này, giáo dục và phát triển các kỹ năng mới tương xứng với các công nghệ mới nổi là không thể thiếu để duy trì việc làm lực lượng linh hoạt và thích nghi. Những người phản đối các công ty đa quốc gia lập luận rằng chúng là một cách để các công ty phát triển độc quyền (đối với một số sản phẩm nhất định), tăng giá cho người tiêu dùng, kìm hãm cạnh tranh và kìm hãm sự đổi mới. Chúng cũng được cho là có tác động bất lợi đến môi trường vì các hoạt động của chúng có thể khuyến khích phát triển đất đai và làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên (tự nhiên) của địa phương. Việc đưa các công ty đa quốc gia vào nền kinh tế của nước chủ nhà cũng có thể dẫn đến sự sụp đổ của các doanh nghiệp địa phương nhỏ. Các nhà hoạt động cũng cho rằng các tập đoàn đa quốc gia đang vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức, cáo buộc họ vi phạm luật đạo đức và thu lợi từ chương trình kinh doanh của họ. Điều gì tạo nên một công ty đa quốc gia:

Tập đoàn đa quốc gia (MNC) là tập đoàn hoạt động ở hai hoặc nhiều quốc gia. Các công ty này thường được quản lý và có văn phòng trung tâm đặt tại quốc gia của họ, nhưng có văn phòng trên khắp thế giới. Thực tế đơn thuần xuất khẩu hàng hóa để bán ra nước ngoài không làm cho một công ty trở thành công ty đa quốc gia. – Lý do tại sao một công ty muốn trở thành công ty đa quốc gia:

Một công ty có thể tìm cách trở thành công ty đa quốc gia để mở rộng cơ sở khách hàng trên toàn cầu và tăng thị phần ở nước ngoài. Do đó, mục tiêu chính là tăng lợi nhuận và tăng trưởng. Các công ty có thể muốn giới thiệu sản phẩm của mình theo một cách đã được sửa đổi hoặc thích nghi với những nhạy cảm về văn hóa cụ thể ở nước ngoài. Các công ty đa quốc gia cũng có thể hưởng lợi từ một số cấu trúc thuế hoặc chế độ quản lý ở nước ngoài. Một số rủi ro mà các công ty đa quốc gia phải đối mặt là:

Các công ty đa quốc gia chịu rủi ro liên quan đến các quốc gia và khu vực khác nhau mà họ hoạt động. Những rủi ro này có thể bao gồm rủi ro về quy định hoặc pháp lý, bất ổn chính trị, tội phạm hoặc bạo lực, nhạy cảm về văn hóa cũng như biến động tỷ giá hối đoái. Người dân địa phương cũng có thể không hài lòng với các công việc thuê ngoài của các công ty đa quốc gia ở nước ngoài.