Hành vi xâm phạm tới quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân

Quan hệ nhân thân là gì? Những quy định về quan hệ nhân thân trong pháp luật hiện hành? Những đặc điểm của quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản là gì? Hành vi xâm phạm tới quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân được giải quyết như thế nào? Để hiểu rõ hơn về những quy định về hành vi xâm phạm tới quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân hãy cùng ACC theo dõi bài viết dưới đây để biết thêm thông tin chi tiết về vấn đề này.

BoBoi Thuong Thiet Haii Thuong Thiet Hai

Vi phạm dân sự là hành vi xâm phạm tới quan hệ tài sản và quan hệ nào sau đây

1. Vi phạm dân sự là hành vi xâm phạm tới?

Vi phạm pháp luật dân sự là những hành vi của đối tượng nào đó xâm phạm đến các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản được pháp luật bảo vệ bằng những chế tài có tính răn đe. Hành vi vi phạm chỉ yếu là vi phạm các nguyên tắc của Bộ luật dân sự; Vi phạm các điều cấm; Vi phạm nghĩa vụ dân sự; Vi phạm hợp đồng dân sự; Các loại vi phạm khác…

2. Quan hệ nhân thân là gì?

– Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Khi nói tới quan hệ nhân thân, chúng ta có thể hiểu các quan hệ này xuất phát từ các giá trị tinh thần của chủ thể, giá trị tinh thần này có thể gắn liền với lợi ích về kinh tế hoặc có thể không gắn liền với lợi ích về kinh tế. Quan hệ nhân thân là một trong hai đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự.

– Quan hệ nhân thân phát sinh vì lợi ích tinh thần, luôn gắn liền với chủ thể nó không mang tính hàng hóa – tiền tệ và không thể tính được bằng trị giá. Nếu như ở quan hệ tài sản, có thể có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thì trong quan hệ nhân thân, việc dịch chuyển các giá trị tinh thần là không thể thực hiện được.

3. Những quan hệ nhân thân không gắn với tài sản

Nhiều giá trị nhân thân ghi nhận các yếu tố nhân thân của một chủ thể mà không gắn với bất kỳ một tài sản nào như họ, tên, quốc tịch, quyền được sống, tính mạng, sức khoẻ, uy tín, danh dự, nhân phẩm hoặc mô, bộ phận cơ thể, quyền hiến xác, giới tính và giới tính được chuyển đổi. Trên cơ sở các giá trị nhân thân này, nhà làm luật ghi nhận các quyền nhân thân mà được hình thành không dựa trên sự ra đời, tồn tại của một tài sản cụ thể mà nó gắn với cá nhân khi cá nhân đó ra đời. Ghi nhận các quyền nhân thân này là cơ sở để các chủ thể mang quyền xác lập các quan hệ liên quan đến quyền của mình. Nói một cách khác, chính việc tham gia vào các quan hệ nhân thân, các chủ thể mới được thực hiện quyền nhân thân của mình.

Luật dân sự năm 2015 không điều chỉnh tất cả các quan hệ nhân thân trong xã hội, mà chỉ điều chỉnh những quan hệ nhân thân là căn cứ để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội. Cho nên, các quan hệ về bầu cử, ứng cử vào Quốc hội, vào Hội đồng nhân dân các cấp không thuộc đối tượng của luật dân sự vì dù nó gắn với nhân thân của từng cá nhân nhưng không phải để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội.

Như vậy, luật dân sự là ngành luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản phát sinh trong đời sống tư với sự ngang bằng về địa vị pháp lý của các chủ thể.

Chấm dứt quan hệ nhân thân: Các quan hệ nhân thân cũng chấm dứt, trong đó điển hình là quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân của người bị tuyên bố chết với chồng hoặc vợ của mình chấm dứt kể từ ngày xác định là ngày cá nhân đó chết. Người chồng hoặc vợ sẽ được hưởng thừa kế phù hợp với quy định của pháp luật.

4. Quan hệ tài sản là gì ?

Quan hệ tài sản là quan hệ phổ biến giữa các chủ thể trong xã hội. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, hoạt động dịch vụ, các chủ thể trong quá trình đó tạo ra những của cải, vật chất khác nhau và theo nhu cầu của các chủ thể cần ừao đổi những sản phẩm là thành quả của lao động, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo thành, từ đó quan hệ về tài sản được xác lập. Quan hệ tài sản tỉ lệ thuận với sự phân công lao động và tính chuyên môn hoá trong sản xuất, kinh doanh, hoạt động dịch vụ trong xã hội. Giữa chủ thể tạo ra các sản phẩm công nghiệp, trao đổi sản phẩm với chủ thể tạo ra lương thực, thực phẩm; giữa các chủ thể tạo ra các sản phẩm hoặc sở hữu những loại tài sản khác nhau trao đổi với nhau thông quan mua bán, tặng cho, đổi tài sản… Nên có thể hiểu, quan hệ tài sản là các quan hệ pháp luật giữa người và người về một tài sản cụ thể. Nói một cách khác, giữa các chủ thể xác lập một quan hệ mà thông qua tài sản đó thì sẽ thu được các lợi ích mà mình mong muốn.

Ví dụ như, khi ông A là chủ sở hữu của chiếc ti vi và không có nhu cầu sử dụng, ông B là người có nhu cầu sở hữu chiếc ti vi của ông A nên hai ông quyết định xác lập, thực hiện một quan hệ mua bán trên cơ sở thoả thuận. Theo đó, ông A hướng đến lợi ích là được nhận một số tiền nhất định tương ứng giá trị chiếc ti vi của mình từ ông B còn ông B hướng đến là quyền chủ sở hữu chiếc ti vi mà trước đó được sở hữu bởi ông A.

Khi xem xét đến quan hệ tài sản là một nhóm cơ bản trong quan hệ pháp luật dân sự nhận thấy có một số đặc điểm nổi bật bao gồm:

Đối tượng trong quan hệ tài sản phải là các loại tài sản được pháp luật thừa nhận và cho phép là đối tượng trong giao dịch dân sự. Hiện nay, pháp luật đang dùng phương pháp liệt kê để ghi nhận tài sản gồm có vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản (Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015). Khái niệm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản thì được quy định cụ thể trong Bộ luật. Với mỗi loại tài sản, chế độ pháp lý đối với tài sản hiện nay đang được áp dụng theo ba nhóm chế độ: tài sản tự do lưu thông, tài sản hạn chế lưu thông và tài sản bị cấm lưu thông. Đổ xác định đối tượng trong các quan hệ tài sản sẽ dựa vào nhu cầu sử dụng tài sản đó cũng như giới hạn pháp luật đặt ra là không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của quốc gia dân tộc, của công cộng hay của các chủ thể khác.

Các quan hệ tài sản có mục đích chính là đem lại các lợi ích vật chất cho các chủ thể. Các quan hệ tài sản có thể đem lại cả những lợi ích tinh thần bên cạnh những lợi ích vật chất nhưng lợi ích vật chất là điều không thể phủ nhận và làm nên đặc điểm nhận diện quan hệ tài sản. Tính chất này xuất phát từ vai trò của tài sản trong đời sống con người. Tài sản đáp ứng nhu cầu vật chất cho đời sống con người, từ nhu cầu thiết yếu hàng ngày như đồ ăn, thức uống, quần áo mặc… cho đến các nhu cầu cho sản xuất, kinh doanh như máy móc sản xuất, bao bì… cho đến nhu cầu tích luỹ tài sản cho tương lai. Con người không thể tồn tại nếu thiếu vắng tài sản nên đa số các giao dịch mà chủ thể xác lập đều liên quan đến tài sản và các chủ thể cũng chủ yếu hướng tới các lợi ích vật chất mà tài sản đem lại.

Các quan hệ tài sản chịu sự chi phối của nguyên tắc trao đổi ngang giá. Trước hết, không phải mọi quan hệ tài sản luôn có tính trao đổi ngang giá này như quan hệ tặng cho tài sản hay quan hệ thừa kế. Tuy nhiên, đa số các quan hệ tài sản đều chịu sự chi phối của nguyên tắc này bởi lẽ, đa số các quan hệ tài sản, khi chủ thể này trao cho chủ thể kia một tài sản đều hướng đến một lợi ích vật chất tương đương. Lợi ích vật chất này được xác định dựa trên giá trị của tài sản là đối tượng của quan hệ tài sản đó. Chính vì thê, nguyên tắc trao đổi ngang giá chi phối, điều chỉnh đa số các quan hệ tài sản mà mang lại tính đền bù cho chủ thể.

5. Vi phạm dân sự bị xử lý như thế nào?

Bộ luật dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại trong và ngoài hợp đồng, theo đó, những người vi phạm dân sự thuộc 1 trong các quy định đó sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.

Ngoài ra những hành vi còn có thể chịu sự xử phạt bởi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác.

Ví dụ: Một người xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác (không phải trên mạng viễn thông) thì sẽ bị xử phạt theo Điều 5 Nghị định 167/2013.

Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

Nếu hành vi đó đủ cấu thành tội Làm nhục người khác thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015

Điều 155. Tội làm nhục người khác

1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Đối với 02 người trở lên;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

Bài viết trên là những thông tin chi tiết và cụ thể về vi phạm dân sự. Nếu có những câu hỏi và thắc mắc cần giải đáp xoay quanh các vấn đề pháp lý, hãy liên hệ Công ty Luật ACC để được tư vấn và hỗ trợ về những vấn đề này. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.