Chế định thủ tục giám đốc thẩm thuộc ngành luật nào?

Giám đốc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không phải là một cấp xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm mà là thủ tục có tính chất đặc biệt bởi có đối tượng xem xét là bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Chế định thủ tục giám đốc thẩm thuộc “ngành luật Tố tụng Dân sự”

Chế định Thủ Tục Giám đốc Thẩm Thuộc Ngành Luật Nào?
Chế định thủ tục giám đốc thẩm thuộc ngành luật nào?

1. Khái niệm Giám đốc thẩm

Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt, không phải là một cấp xét xử. Cụ thể:

Thứ nhất, giám đốc thẩm là thủ tục xét lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải xét xử lại các bản án, quyết định đó. Theo nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử được pháp luật Việt Nam ghi nhận tại Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hai cấp xét xử đó là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Hai cấp này với vai trò xét xử các vụ việc hay bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật khi có đơn khởi kiện hay kháng cáo, kháng nghị. Còn giám đốc thẩm là thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Thứ hai, đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Về nguyên tắc những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì sẽ được đưa ra thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Tuy nhiên trong một số trường hợp mặc dù bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng lại không đúng với bản chất vụ việc của pháp luật. Trong trường hợp này nếu đưa bản án, quyết định đó ra thi hành thì sẽ gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy nếu bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện không đúng với bản chất sự việc hay có những vi phạm, sai lầm nghiêm trọng về pháp luật gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của đương sự thì cần đặt ra thủ tục xét lại bản án, quyết định đó và điều này là hoàn toàn hợp lý.

Thứ ba, chủ thể làm phát sinh thủ tục giám đốc thẩm chỉ có một số người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Khác với các cấp xét xử dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan có thể làm đơn hay thực hiện thủ tục kháng cáo để bảo vệ quyền, lợi ích của mình khi chưa được đảm bảo. Nhưng ở giám đốc thẩm họ không có quyền kháng cáo nữa mà chỉ có thể thông báo với các cơ quan có thẩm quyền để họ thực hiện thru tục kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.Chỉ có những người quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 mới có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Thứ tư, thủ tục giám đốc thẩm không mở công khai và bắt buộc phải có sự tham gia của viện kiểm sát. Điều này được khẳng định tại khoản 1 Điều 338 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nếu người có quyền, lợi ích hợp pháp sẽ được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm nếu được Tòa án triệu tập.

2. Kháng nghị giám đốc thẩm

Là hành vi tố tụng của chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ theo quy định của pháp luật về phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giải quyết vụ án.

  • Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm

Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm được xây dựng dựa trên căn cứ phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dẫn đến hậu quả là quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Cụ thể Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định có ba căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:

  • Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
  • Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật.
  • Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

Khi có một trong các căn cứ trên thì chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm có thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

  • Chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm

Như đã nói ở trên, vì đây là thủ tục đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên chỉ có một vài chủ thể nhất định mới có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Cụ thể (Điều 331 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015):

  • Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
  • Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Căn cứ để các chủ thể này kháng nghị là dựa vào công tác giám đốc thẩm của ngành Tòa án, khiếu nại của đương sự, tổng kết của ngành, công tác giám sát của Nhà nước, cơ quan tư pháp và từ các phương tiện thông tin đại chúng.

  • Thời hạn kháng nghị

Theo Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 3 năm kể từ ngày bản án quyết định có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm có thể kéo dài thêm 02 năm nếu thuộc các trường hợp sau:

  • Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 334 đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị.
  • Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.

3. Thẩm quyền giám đốc thẩm

Điều 382 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm cụ thể như sau:

– Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị.

– Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán nhưng không thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án.

Khi xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao làm chủ tọa phiên tòa. Quyết định của Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; nếu không được quá nửa số thành viên của Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán tán thành thì phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án.

– Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực bị kháng nghị. Khi xét xử giám đốc thẩm thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương tham gia, do Chánh án Tòa án quân sự trung ương làm chủ tọa phiên tòa. Quyết định của Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; nếu không được quá nửa số thành viên của Ủy ban Thẩm phán tán thành thì phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Ủy ban Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án.

– Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương bị kháng nghị.

– Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật quy định tại khoản 4 Điều này nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng không thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án.

Khi xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia, do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tọa phiên tòa. Quyết định của Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; nếu không được quá nửa số thành viên của Hội đồng toàn thể Thẩm phán tán thành thì phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Hội đồng toàn thể Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án.

– Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp khác nhau thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.