Chiến tranh lạnh bắt nguồn từ đâu? Đã chấm dứt khi nào?

1. Chiến tranh lạnh là gì?

Chiến tranh Lạnh là một thời kỳ đầy căng thẳng trong lịch sử thế giới, kéo dài từ cuối Thế chiến II đến giai đoạn đầu những năm 1990. Trong thời kỳ này, thế giới chứng kiến sự đối đầu quyết liệt giữa hai siêu cường mạnh mẽ – Hoa Kỳ và Liên Xô (sau này chia thành nhiều quốc gia, trong đó Nga tiếp tục vai trò của Liên Xô). Tuy tên gọi “chiến tranh” nhưng không có cuộc xung đột vũ trang trực tiếp giữa hai phe, thay vào đó, tình hình được tạo nên bởi sự đối đầu tại nhiều mặt khác nhau.

Chiến tranh Lạnh thể hiện qua cuộc đua vũ trang không ngừng nghỉ, với cả hai phe cố gắng xây dựng và nâng cấp các vũ khí hạt nhân và quân sự nhằm thể hiện sức mạnh và sẵn sàng phản đối bất kỳ hành động đe dọa. Tuyệt vời trong mối quan hệ này là cuộc chạy đua không chỉ về quân sự, mà còn về kinh tế, khoa học, công nghệ và cả tư tưởng xã hội.

Hơn nữa, Chiến tranh Lạnh thể hiện qua sự đối đầu tư tưởng và chính trị. Hai phe tranh cãi về cách xã hội nên tổ chức và hoạt động. Mặt trái của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây và chủ nghĩa xã hội ở phương Đông đã tạo ra một vùng đất đỏ lửa tại các diễn đàn tư duy và văn hóa.

Nhưng Chiến tranh Lạnh không chỉ đối đầu giữa hai quốc gia, mà còn ảnh hưởng đến cả thế giới. Các quốc gia trên khắp thế giới trở thành bãi đấu của hai phe, với mỗi phe cố gắng thu thập ủng hộ và ảnh hưởng đối với các quốc gia này.

Cuối cùng, Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô và sự thay đổi cấu trúc thế giới. Mặc dù đã kết thúc, di sản của Chiến tranh Lạnh tiếp tục sống sót, ảnh hưởng cách thức quốc tế hoạt động và định hình tương lai của thế giới.

2. Chiến tranh lạnh bắt nguồn từ đâu:

Trong Thế chiến II, Mỹ và Liên Xô đã chiến đấu với nhau như các đồng minh chống lại quyền hạn của Phát xít. Tuy nhiên, mối quan hệ của hai quốc gia là một mối quan hệ căng thẳng. Người Mỹ từ lâu đã cảnh giác với chủ nghĩa cộng sản Liên Xô và lo lắng trước quy tắc tàn ác, độc đoán của nhà lãnh đạo Nga Joseph Stalin của đất nước này. Về phần mình, Liên Xô phẫn nộ sự từ chối trong nhiều thập kỷ của người Mỹ không cư xử với Liên Xô như là một phần hợp pháp của cộng đồng quốc tế cũng như việc họ bị sa lầy vào cuộc Thế chiến II đã đưa đến cái chết của hàng chục triệu người Nga. Sau khi chiến tranh chấm dứt, mối bất bình này đã chín muồi thành một cảm giác áp đảo lẫn nhau và sự thù hận lẫn nhau. Sự sụp đổ của Liên Xô và chiến tranh ở Đông Âu đã khiến nhiều người Mỹ lo lắng trước kế hoạch của Nga nhằm thống trị thế giới. Trong khi đó, Liên Xô trở nên căm phẫn những gì họ cảm nhận thấy chỉ là lời nói hùng biện của các quan chức Hoa Kỳ về phát triển vũ khí và cách Washington can dự vào quan hệ quốc tế. Trong một bầu không khí thù địch như vậy, Chiến tranh lạnh diễn ra là điều không thể tránh khỏi.Chiến tranh Lạnh được định nghĩa là thời kì đối đầu về mặt chính trị và quân sự giữa Hoa Kỳ và Liên Xô sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Yếu tố ” chiến tranh ” ở đây thể hiện sự khác biệt lớn về mặt quyền lực và ý thức hệ giữa 2 nước; trong khi đó ” lạnh ” phản ánh việc Liên Xô và Hoa Kỳ không dùng vũ khí ” nóng ” (những loại vũ khí thông thường) cho mối quan hệ thù địch này, mà thay vào đó là cuộc chạy đua vũ trang, nổi bật là vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, Chiến tranh Lạnh là giai đoạn cuối cùng của lịch sử hình thành hệ thống lưỡng cực khi cả Hoa Kỳ và Liên Xô là biểu tượng; và mâu thuẫn giữa hai nước cũng đặc trưng bằng mâu thuẫn giữa phe Tư bản chủ nghĩa (do Hoa Kỳ đứng đầu) và phe Xã hội chủ nghĩa (do Liên Xô lãnh đạo) . Chiến tranh Lạnh cũng tác động sâu rộng tới hầu hết mọi mặt trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của mỗi quốc gia khi mà từng nước đều lựa chọn con đường phát triển của mình dựa trên sự xác định ý thức hệ.

Tóm lại, Liên Xô chủ trương duy trì hoà bình an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Mỹ ra sức chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới và đang mở rộng ra châu Á và Mĩ Latinh, làm cho chủ nghĩa xã hội mở rộng từ Âu sang Á và Mĩ Latinh, ảnh hưởng của Liên Xô và chủ nghĩa xã hội nói chung ngày càng lớn. Trong bối cảnh ấy Mỹ tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng này của chủ nghĩa xã hội. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành nước giàu mạnh nhất về kinh tế – tài chính, về quân sự và đang nắm trong tay lợi thế vũ khí nguyên tử. Từ đó, Mỹ tự cho mình quyền lãnh đạo thế giới, chống lại chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh của thế giới sau chiến tranh, Xô – Mỹ đã chuyển từ sự hợp tác trong chiến tranh sang tình trạng đối đầu và Chiến tranh lạnh.

3. Biểu hiện của chiến tranh lạnh:

Chiến tranh Lạnh đã thể hiện qua nhiều biểu hiện và tác động trải dài trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong thế giới từ cuối những năm 1940 đến đầu những năm 1990. Dưới đây là một số biểu hiện chính của Chiến tranh Lạnh:

Cuộc đua vũ trang: Hoa Kỳ và Liên Xô cạnh tranh trong việc xây dựng và nâng cấp vũ khí hạt nhân và quân sự. Cuộc đua này đã dẫn đến việc phát triển các loại vũ khí mạnh mẽ và có khả năng tiêu diệt hàng loạt, tạo ra một mối lo ngại về sự xảy ra của chiến tranh hạt nhân.

Liên minh quân sự: Hai phe tạo ra các liên minh quân sự để tăng cường sự ổn định và an ninh trong tình thế căng thẳng. Hoa Kỳ thành lập NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương), trong khi Liên Xô thiết lập Khối Đông (Pact của Warsaw) cùng với các quốc gia đồng minh của mình.

Đua tranh trong không gian: Cuộc đua vào không gian đã trở thành một biểu tượng của Chiến tranh Lạnh. Sự cạnh tranh trong việc phát triển công nghệ vũ trụ và viễn thông gắn liền với việc thể hiện sức mạnh và ảnh hưởng của hai phe.

Tình trạng đóng băng: Nhiều khu vực trên thế giới đã trở thành “đóng băng” trong cuộc chiến tranh ảo. Điều này bao gồm cuộc chiến tâm lý trong tư duy và quan điểm của người dân ở các nước đối đầu, với mỗi phe cố gắng thể hiện hình ảnh tích cực của chính mình và hình ảnh tiêu cực của đối phương.

Xâm lược và ủng hộ quốc tế: Hai phe cạnh tranh trong việc hỗ trợ các phong trào dân tộc và chính trị ở các nước khác nhau trên thế giới. Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đua nhau để tìm cách mở rộng ảnh hưởng và ủng hộ các chính phủ hoặc phong trào thân Nga hoặc thân Mỹ.

Tranh chấp tư tưởng và tôn giáo: Hai phe cố gắng thể hiện sự ưu việt của hệ thống tư duy và tôn giáo của mình. Cuộc đua này thể hiện trong các cuộc tranh luận về chủ nghĩa tư bản so với chủ nghĩa xã hội, tự do cá nhân so với kiểm soát tập trung và tôn giáo Kitô giáo so với chủ nghĩa vô thần.

Những biểu hiện này đã tạo ra một tình hình căng thẳng kéo dài và có sự ảnh hưởng sâu rộ đối với toàn cầu, và chúng thể hiện sự cạnh tranh toàn diện giữa hai siêu cường lúc bấy giờ.

4. Mục đích của chiến tranh lạnh:

Đặc điểm nổi bật của trận chiến này là có nhiều thời đoạn tương đối êm đềm nhưng cũng có những thời đoạn căng thẳng được đẩy đến cao trào trong quan hệ quốc tế. Trong đó nổi trội là cuộc bao vây Berlin (1948-1949), chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) hay khủng hoảng Berlin 1961, chiến tranh Đông Dương (1945-1975) và nhiều sự kiện khác. lại.

Cũng từ đầu năm 1980, Mỹ tăng thêm sức ép ngoại giao, quân sự và kinh tế đối với Liên Xô, quốc gia đang có vấn đề về kinh tế. Tiếp đến, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đã phải đưa ra nhiều cải cách nhằm giải quyết tình trạng này.

Bản chất chính của cuộc chiến là sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô Viết nhiều năm sau chiến tranh của Thế chiến thứ hai. Trong Thế chiến thứ hai, mâu thuẫn chính là diễn ra giữa hai thế lực: phe Đồng Minh bao gồm những nước theo chủ nghĩa tư bản như Anh, Hoa Kỳ. .. liên minh với Liên Xô chống lại chủ nghĩa phát xít của Đức, Italia và Nhật. Sau khi chiến tranh kết thúc, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời ở Đông Âu, mâu thuẫn chuyển sang giữa hệ thống các nước trong hệ thống chủ nghĩa tư bản và những nước theo chủ nghĩa cộng sản, mà nổi bật nhất là giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Như thế rõ ràng rằng, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành mối quan ngại nhất của chính giới Hoa Kì. Vì vậy, việc phát động chiến tranh lạnh cũng là nhằm mục đích ngăn cản và tiến tới xoá bỏ Liên Xô và những nước xã hội chủ nghĩa.

5. Chiến tranh lạnh kết thúc khi nào?

Chiến tranh Lạnh chính thức kết thúc vào năm 1991, sau sự sụp đổ của Liên Xô (cũng gọi là Sự sụp đổ của tường Berlin) và những biến đổi lớn trong tình hình quốc tế. Sự kiện chính xảy ra trong năm này là việc Liên Xô tan rã và kết thúc một thời kỳ kéo dài gần 45 năm của căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.

Một số sự kiện chính trong quá trình kết thúc Chiến tranh Lạnh:

Sự tan rã của Liên Xô: Trong những năm 1980, Liên Xô gặp phải nhiều vấn đề kinh tế và chính trị nội bộ. Sự cản trở và thất bại của các cải cách đã góp phần làm gia tăng sự bất ổn và cuối cùng dẫn đến sự tan rã của Liên Xô. Ngày 25 tháng 12 năm 1991, cờ Liên Xô được hạ xuống tại Kremlin, chấm dứt chính thức sự tồn tại của nước cộng hòa này.

Sự kiện tại Đức: Việc mở cửa biên giới giữa Đông và Tây Đức vào ngày 9 tháng 11 năm 1989 đã đánh dấu một bước quan trọng trong việc chấm dứt phân chia Đức và tạo ra sự tăng tốc trong quá trình đổ bộ của thế giới Đông Âu vào thế giới Tây Âu.

Hiệp định START I và START II: Hai hiệp định hạn chế vũ khí hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, được ký kết vào năm 1991 và 1993 lần lượt, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm mức độ căng thẳng và loại bỏ một số vũ khí hạt nhân.

Những sự kiện này đã chấm dứt chính thức thời kỳ Chiến tranh Lạnh và mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử thế giới, đánh dấu sự thay đổi lớn trong cách thức quan hệ quốc tế và định hình thế giới hiện đại.