Điều 597 của Bộ luật Dân sự 2015

Trong thực tế, việc bồi thường thiệt hại diễn ra khá thường xuyên với rất nhiều trường hợp khác nhau. Trong số đó, bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra đã được các nhà làm luật dự liệu trong quy định tại Điều 597 của Bộ luật Dân sự 2015.

Điều 597 của Bộ luật Dân sự 2015

1. Quy định của pháp luật

Thực chất, bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 597 về Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra và Điều 600 về Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra có cách điều chỉnh tương tự nhau, chỉ khác nhau về đối tượng, hai quy định này thực chất là một.

Cụ thể, Điều 597 của Bộ luật Dân sự 2015 có quy định như sau: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” Đây là trường hợp bồi thường thiệt hại do người khác gây ra, có nghĩa là người gây thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi thường là hai chủ thể khác nhau. Do đó, cần phải lưu ý điều kiện để áp dụng quy định này.

Cụm từ “người của mình” theo quy định tại Điều 597 được hiểu là bất cứ thành viên nào của pháp nhân. Thành viên này có thể được pháp nhân tuyển dụng vào làm việc theo các quan hệ hợp đồng dài hạn, ngắn hạn hay đang trong thời gian thử việc. Người thực hiện các hoạt động của pháp nhân có thể là người của pháp nhân hoặc là người ngoài pháp nhân, nhưng chỉ những người thực hiện hoạt động của pháp nhân như một nhiệm vụ được giao mới được coi là người của pháp nhân, còn người thực hiện hoạt động của pháp nhân với tư cách là một loại nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng với pháp nhân sẽ không được coi là người của pháp nhân.

Trong mối quan hệ với người bị thiệt hại, đây là thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. Thiệt hại ở đây phải là thiệt hại gây ra trong thời gian người của pháp nhân thực hiện công việc được giao. Trong trường hợp này, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu pháp nhân bồi thường thiệt hại.

Trong mối quan hệ với người gây thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi thường, đây là trường hợp bồi thường thiệt hại do người khác gây ra. Như vậy, sau khi bồi thường người bồi thường thiệt hại (pháp nhân) có được yêu cầu người gây thiệt hại (người của pháp nhân) bồi thường lại hay không?

Có thể thấy, Bộ luật Dân sự 2015 cho phép người chịu trách nhiệm bồi thường yêu cầu người gây ra thiệt hại hoàn trả nếu người đó có lỗi. Để có thể buộc người gây ra thiệt hại hoàn trả thì pháp nhân phải chứng minh người đó có lỗi trong việc gây thiệt hại. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự không cho biết lỗi trong việc gây ra thiệt hại là gì.

Ngoài ra, cần phải lưu ý rằng để có thể áp dụng quy định tại Điều 597 thì đó phải là thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. Nếu người gây ra thiệt hại đang làm việc cho tổ chức không có tư cách pháp nhân thì không thể áp dụng Điều 597. Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 quy định một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện: i) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; ii) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; iii) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; iv) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Theo Luật Doanh nghiệp 2020, ở Việt Nam hiện có 05 loại hình doanh nghiệp bao gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.Trong số các loại hình doanh nghiệp này, chỉ có duy nhất doanh nghiệp tư nhân là không có tư cách pháp nhân.

2. Chủ thể bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại Điều 597 thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu pháp nhân – bên quản lý của người gây ra thiệt hại bồi thường. Như vậy, có một câu hỏi đặt ra ở đây là người bị thiệt hại có được quyền yêu cầu chính người gây ra thiệt hại bồi thường hay không? Để trả lời cho câu hỏi này, hiện nay Bộ luật Dân sự không thực sự rõ ràng về vấn đề này. Quan điểm của người làm lý thuyết về vấn đề trên cũng không thực sự thống nhất. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng Điều 597 được xây dựng để bảo vệ người bị thiệt hại. Do đó, Bộ luật Dân sự hướng đến việc cho phép người bị thiệt hại có được quyền yêu cầu chính người gây ra thiệt hại bồi thường.

3. Mức hoàn trả

Bộ luật Dân sự có đưa ra thuật ngữ “hoàn trả một khoản tiền” chứ không nói là hoàn trả toàn bộ khoản tiền. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 65 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước thì phải bồi thường toàn bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015, cũng tức là bồi thường toàn bộ những thiệt hại trên thực tế.

4. Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại Điều 588 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là 3 năm. So với quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 là 2 năm, thời điểm bắt đầu là khi quyền, lợi ích bị xâm phạm, sang đến Bộ luật Dân sự 2015 thời hiệu này đã được kéo dài thành 3 năm, thời điểm bắt đầu là khi biết quyền, lợi ích bị xâm phạm.

Quy định trên của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã góp phần bảo vệ người bị thiệt hại, bởi lẽ trong một số trường hợp người gây thiệt hại sẽ không đủ khả năng chi trả cho những thiệt hại mà mình gây ra, việc quy định cho phép yêu cầu pháp nhân nơi mà người đó làm việc bồi thường thiệt hại đã giúp ích rất nhiều cho người bị thiệt hại trong việc khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực do cá nhân khác gây nên.

Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của ACC về quy định tại Điều 597 Bộ luật Dân sự năm 2015 gửi đến quý bạn đọc để tham khảo. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc cần giải đáp, quý bạn đọc vui lòng truy cập trang web: https://accgroup.vn để được trao đổi, hướng dẫn cụ thể.