Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật

Video hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

Dưới đây là bài viết về hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật mà chúng tôi muốn đem đến cho Quý khách những thông tin bổ ích. Xin mời quý khách tham khảo!

1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật

1.1 Hai loại hình biện chứng

Biện chứng được hiểu theo 2 nghĩa:

  • Là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ, qua lại lẫn nhau, sự vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập bên ngoài ý thức con người
  • Là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ và sự vận động, biến đổi của quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người

Biện chứng được phân thành:

+ Biện chứng khách quan: biện chứng của bản thân các sự vật,hiện tượng, quá trình tồn tại bên ngoài ý thức con người.

+ Biện chứng chủ quan: tư duy biện chứng và biện chứng của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người.

– Phép biện chứng là phương pháp nhận thức các sự vật, hiện tượng của thế giới trong mối quan hệ ràng buộc với nhau, xem xét các sự vật, hiện tượng đó trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng

1.2 Khái niệm phép biện chứng duy vật.

  • Ăngghen định nghĩa: Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Lênin định nghĩa: “… phép biện chứng tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”
  • Vai trò của phép biện chứng duy vật: kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
  • Đối tượng nghiên cứu: là trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới
  • Nội dung của PBCDV gồm: 2 nguyên lý, 3 quy luật và 6 cặp phạm trù

2. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật

2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

2.1.1 Khái niệm

  • Mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau.
  • Có nhiều loại liên hệ, trong đó có loại liên hệ chung nhất. Đây là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
  • Mối liên hệ phổ biến: là mối liên hệ chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của toàn bộ thế giới khách quan (bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy

2.1.2.Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Quan điểm siêu hình: sự vật và hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia: giữa chúng không sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên.

Quan điểm biện chứng:Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau.

Cơ sở của sự tồn tại đa dạng các mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới.

Các sự vật, hiện tượng phong phú trong thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.

Vì thế, trong thế giới không có sự vật nào tồn tại cô lập, tách rời, không liên hệ với các sự vật khác, trái lại đều liên hệ với nhau theo một phương thức nào đó và tạo nên một hệ thống chằng chịt những liên hệ của thế giới.

2.1.3 Tính chất của mối liên hệ phổ biến

  • Tính khách quan: mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, tồn tại bên ngoài con người,không phụ thuộc vào ý thức con người.-
  • Tính phổ biến: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác, biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Mối liên hệ qua lại,quy định, chuyển hóa lẫn nhau diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy và diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình.
  • Tính đa dạng, phong phú: Mỗi lĩnh vực khác nhau của thế giới tồn tại và biểu hiện những mối liên hệ khác nhau, rất phong phú và nhiều vẻ. Căn cứ vào đây ta có thể phân chia ra một số mối liên hệ

+ Mối liên hệ về không gian và thời gian

+ Mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng

Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp

+ Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên

+ Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất

+ Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu…

* Chú ý: Sự phân biệt này có tính tương đối, các mối liên hệ có thể chuyển hóa cho nhau. Những liên hệ khác nhau của sự vật có nội dung và vai trò khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật.

2.1.4 Ý nghĩa của phương pháp luận

Khi nghiên cứu đối tượng cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện:

Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó

Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại để phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng

Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định.

Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện,một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại)và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).

2.2 Nguyên lý về sự phát triển

Triết học Mác-Lênin luôn coi trọng sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Việc đặt sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển là một nguyên lý quan trọng của triết học Mác-Lênin. Liên hệ tức là vận động, mà không vận động thì không có sự phát triển. Nhưng vận động và phát triển là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm vận động khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.

Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng – chất và quy luật phủ định. Trong đó:

  • Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
  • Quy luật lượng – chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
  • Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.

Ba quy luật này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động.