Ưu điểm và nhược điểm của sản xuất hàng hóa

1. Tổng quan về hàng hóa và sản xuất hàng hóa

Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định của con người và được đưa vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã trải qua hai loại hình tổ chức kinh tế là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm do lao động sản xuất ra nhằm thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hóa là sản xuất sản phẩm để bán. Nói cách khác, sản xuất thị trường là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.

Nền sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt cơ bản trong lịch sử phát triển của loài người. Sản xuất hàng hóa xóa bỏ kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.

2. Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của nền sản xuất thị trường

Nền sản xuất thị trường chỉ tồn tại khi thỏa mãn hai điều kiện: có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.

2.1 Phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội là sự phân công lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa lao động, từ đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất.

Cơ sở của sự phân công lao động xã hội là: dựa vào lợi thế về tự nhiên, kỹ thuật, khả năng và sức lực của từng người, từng vùng; theo đặc điểm, lợi thế xã hội như phong tục, tập quán, nơi ở, v.v. của từng vùng. Vai trò của phân công lao động là làm cho trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi có phân công lao động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất ra một hoặc một số sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều sản phẩm dẫn đến họ để trao đổi sản phẩm với nhau. Hơn nữa, phân công lao động xã hội còn làm tăng năng suất lao động xã hội, do đó sản phẩm trao đổi thặng dư ngày càng nhiều.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại cần có điều kiện thứ hai.

2.2 Sự phân biệt kinh tế tương đối của người sản xuất

Bên cạnh điều kiện cần là phân công lao động xã hội, còn phải có điều kiện đủ, đó là giữa những người sản xuất phải có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế. Sự tách biệt về kinh tế tương đối có nghĩa là những người sản xuất trở thành những thực thể có sự độc lập nhất định với nhau. Vì vậy, sản phẩm sản xuất ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của các chủ thể kinh tế, những người muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa.

Có ba cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quyết định, còn trong điều kiện sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách biệt về tài sản và quyền sử dụng trên phương tiện quy định. Chế tạo.

Trong chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tư liệu sản xuất thuộc về mỗi cá nhân và do đó, sản xuất thuộc sở hữu của họ. Nói chính xác hơn là sản xuất hàng hóa ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự tách biệt này là do quan hệ sở hữu khác nhau của tư liệu sản xuất, mà trước đây là sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất, đã đồng nhất chủ sở hữu tư liệu sản xuất với chủ sở hữu sản phẩm vận động. Như vậy, chính những quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất trở nên độc lập và đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, do đó giữa sản xuất và tiêu dùng họ phụ thuộc lẫn nhau. Trong điều kiện này, nếu người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác thì phải mua bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hoá.

Cơ sở thứ ba là sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản xuất. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về sở hữu mà còn ở quyền sử dụng những số lượng khác nhau tư liệu sản xuất của cùng một chủ sở hữu. Khi tồn tại sự tách biệt về kinh tế giữa các tác nhân sản xuất trong điều kiện có phân công lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa các tác nhân khác nhau phải đảm bảo lợi ích của họ. Điều này chỉ có thể đạt được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại là trao đổi hàng hoá, sản phẩm của lao động trở thành hàng hoá.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các nhà sản xuất dẫn đến việc sản phẩm được sở hữu hoặc kiểm soát bởi nhà sản xuất đó, và do đó có quyền bán sản phẩm đó. Hơn nữa, sự tách biệt đó còn làm cho các quan hệ trao đổi của chủ thể này nhất thiết mang hình thức trao đổi hàng hoá, bởi vì sự tách biệt tương đối về kinh tế làm cho những người sản xuất này có lợi, độc lập với nhau về mặt kinh tế. Vì vậy, sản phẩm sản xuất ra phải có hình thức trao đổi theo nguyên tắc ngang giá thì mới công bằng bình đẳng, bảo đảm lợi ích của các chủ thể này.

Trên đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì sẽ không có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, tức là nó chỉ tồn tại khi có cả hai điều kiện đó và biến mất khi một trong hai điều kiện đó mất đi.

2.3 Lợi ích của việc sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hóa ra đời nhằm khai thác lợi thế tự nhiên, xã hội và kỹ thuật của mỗi người, mỗi địa phương, mỗi vùng lãnh thổ Việt Nam. Đơn cử như vùng ĐBSCL do có điều kiện thuận lợi để phát triển nghề trồng lúa nước nên đây là nơi cung cấp nguồn lương thực chính cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Sản xuất hàng hóa là nhằm mục đích trao đổi, đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất có điều kiện chuyên môn hóa cao. Trình độ kỹ năng được cải thiện bằng cách tích lũy kinh nghiệm và tiếp thu kiến ​​thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng nên cạnh tranh càng gay gắt kéo theo năng suất lao động được nâng cao, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện. Hiệu quả kinh tế được coi là mục tiêu để đánh giá hoạt động của các ngành kinh tế. Quy mô sản xuất được mở rộng, tạo điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.

Sự tác động của các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, tích cực, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và chất lượng, hiệu quả kinh tế. Nền sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa ngày càng được nâng cao, phong phú và đa dạng. Các quan hệ hàng hóa, tiền tệ và thị trường ngày càng được người sản xuất hàng hóa sử dụng có hiệu quả hơn và từ đó, bên cạnh các quan hệ kinh tế phát triển, các quan hệ xã hội pháp lý, tập quán, cách ứng xử cũng có nhiều thay đổi.

GDP bình quân của Việt Nam trong thời kỳ chuyển sang sản xuất hàng hóa sau đổi mới đều tăng qua các năm. Từ 1986 đến 1990, GDP của KV1 là 2,7%, KV2 là 4,7% và KV3 là 5,7%. Giai đoạn 1991 – 1995, GDP của KV1 là 4,1%, KV2 là 12%, KV3 là 8,6%. Giai đoạn 1996 – 2000, GDP của KV1 là 4,4%, KV2 là 10,6%, KV3 là 5,7%.

Sản xuất nguyên liệu đưa Việt Nam từ một nước kém phát triển trở thành một nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống vật chất ngày càng đầy đủ, đời sống tinh thần ngày càng phong phú.

2.4 Nhược điểm của việc sản xuất hàng hóa

Phân hóa đời sống nhân dân, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội đi liền với hạ thấp địa vị kinh tế, gây mất trật tự xã hội

Vì chạy theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sử dụng bừa bãi, hủy hoại tài nguyên và hủy hoại môi trường, sinh thái (điển hình là các công ty xả thải bừa bãi ra môi trường, làm ô nhiễm môi trường). Năm 2004, 5 công ty tư nhân nhập khẩu 230 tấn phế liệu phế liệu không tuân thủ khai báo tại cảng Sài Gòn và vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường. Đặc biệt, vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã gây phẫn nộ trên cả nước. Nước thải công nghiệp của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh xả trái phép chưa qua xử lý ra môi trường biển làm hải sản chết hàng loạt tại 4 tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng nề về tài sản và môi trường sinh thái biển, ảnh hưởng đến hoạt động thương mại, du lịch và tính mạng, sức khỏe con người. Ở Việt Nam, những “làng ung thư” ngày càng xuất hiện nhiều.

Để giảm thiểu đầu tư và tối đa hóa lợi nhuận, các công ty đã coi thường sức khỏe của người tiêu dùng, sản xuất hàng giả, hàng nhái và hàng kém chất lượng. Các vụ sản xuất sữa lậu, trà sữa làm từ nguyên liệu kém chất lượng, ngộ độc trà sữa… đang tăng lên từng ngày.

3. Giải pháp nâng cao hoạt động sản xuất hàng hóa

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế của nền sản xuất hàng hóa, vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Chính từ tính ưu việt độc đáo và rất có lợi (mặc dù còn có những khiếm khuyết) của sản xuất hàng hóa mà tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta đã xác định phương hướng: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế cơ chế thị trường có sự chỉ đạo của nhà nước.

Nhà nước cần tăng cường điều tiết, quản lý vĩ mô một cách kiên quyết, sáng suốt để mọi hoạt động đều trong khuôn khổ, đúng pháp luật. Nhà nước phải thiết lập khung pháp lý về kinh tế kết hợp với luật bảo vệ môi trường để xác định hành vi của doanh nghiệp có hợp pháp hay không và có biện pháp xử lý cá nhân, tổ chức nào vi phạm. Hơn nữa, nhà nước phải vận dụng một cách có ý thức các quy luật kinh tế khách quan để quản lý nền kinh tế sản xuất hàng hóa phát huy những ưu điểm vốn có, ngăn ngừa và hạn chế những nhược điểm của nó. Vì vậy, việc sử dụng “bàn tay hữu hình” của nhà nước góp phần quan trọng tạo hành lang, các khâu để kinh tế thị trường tiến lên chủ nghĩa xã hội.