Triet 1

I. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó.

  1. Định nghĩa phạm trù vật chất

1 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất: Chủ nghĩa duy vật

trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó nổi lên các định nghĩa điển

hình sau đây:

  • Thời kì cổ đại: đồng nhất vật chất với một dạng vật cụ thể:
  • Talet cho rằng vật chất là nước. – Anaximen cho rằng vật chất là không khí. –

Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên tử. => Quan niệm vật chất thời kì cổ đại mang tính trực quan, cảm tình. Nó chỉ có tác dụng chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.

  • Thời kí cận đại thế kỷ XVII – XVIII: đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất.

VD: Niutơn cho rằng khối lượng là vật chất.

=> Quan điểm vật chất thời kì cận đại mang tính siêu hình, máy móc.

1 Định nghĩa vật chất của Lênin:

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem

lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Đây là định nghĩa khoa học nhất , hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.Iênin

trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Định nghĩa

trên đã đề cập đến các nội dung chủ yếu sau:

  • Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ

thuộc vào ý thức bất kể sự tôn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận

thức được.

  • Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp

tác động lên giác quan của con người.

  • Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất lên con người, tức

con người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại khách quan.. 2. Các hình

thức tồn tại của vật chất:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động và vận động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận

động, không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất

  1. Vận động:

Theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời gian, nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật hiện tượng.

Còn theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Xét về bản chất, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuốc tính cố hữu của vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà nó

tồn tại vĩnh viễn. Nguồn gốc vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định. Các hình thức cơ bản của vận động bao gồm: vận động cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội.

2 Không gian và thời gian

Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không ở đâu khác. “Ngoài không gian và thời gian”. Không gian và thời gian là một thuộc tính

khách quan của vật chất, gắn liền với sự vận động của vật chất. Mọi sự vật tồn tại khách quan đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, ngang dọc, cao thấp của nó, tất cả những thuộc tính đó được gọi là không gian.

Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi diễn ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả những thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là

thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình

thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình. Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau của vật chất vận động. Vì vậy, không gian và thời gian có những tính chất

sau đây:

Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới

bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.

Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ

thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động. Đồng

thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con

người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát triển thành.

Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất,

nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức và

sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc người là cơ quan phản

ánh song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của

thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.

Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là

nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

1.1. Nguồn gốc xã hội: Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.

Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động

của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người. ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần túy, tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người. như vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.

Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này – tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.

Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.

1 Bản chất của ý thức. Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo. Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới.

Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức

Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.

  • Vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, nó sinh ra và quyết định đối với ý thức. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình thành ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất đó vào con người. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất, đó là một thuộc tính phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất.

Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con nguời nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Do vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.

  • Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nói tới vai trò của ý thức tức là nói đến vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người, bản thân của ý thức tự nó không làm thay đổi gì hiện thựcác nói :“.ực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất..” Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng: Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và thành công khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ thúc đẩy thế giới vật chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác.

Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.

VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất. Vì vậy con người phải phát huy vai trò sáng tạo của thế giới khách quan. Tuy nhiên cơ sở để phát huy tính năng động chủ

quan của ý thức là việc thừa nhận tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật tự nhiên của xã hội. Nếu như thế giới vật chất với những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình.

  • Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như cụ thể và khách thể, lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Phần II, Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới:
  1. Ý nghĩa phương pháp luận: Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan. Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.

Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”. Chống quan điểm duy ý chí: V.Iênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí.

Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này “là sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.

2ự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, bước

tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu” – tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sang tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ giáo dục và đào tạo,Giáo trình triết học Mác – Lênin. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, HN. [3]. Các và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 1995, Tập 23 tr. 21. [4]. Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, HN. [5]. Công cụ tìm kiếm: Google

  1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức 1 Định nghĩa vật chất và ý thức 1.1 Vật chất: Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó .Nhưng theo Lênin định nghĩa :”vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác “. Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường vì khái niệm vật chất là khái niệm rộng nhất.Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất với ý thức ,hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người

trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác ,ý thức, còn cảm giác ,ý thức phụ thuộc vào vật chất ,phản ánh khách quan. Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học ,Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất là khái niệm rộng nhất ,muốn phân biệt tư cách là phạm tù triết học ,là kết quả của sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ thể ,với những” hạt nhân cảm tính”.Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được .Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó. Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có ,không thể tiêu diệt được ,nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác ,ý thức con người, vật chất là một thực tại khách quanác với quan niệm ý niệm tuyệt đối của chủ nghĩa duy tâm khách quan ,”thượng đế”của tôn giáo ..ật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó ,trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật ,hiện tượng cụ thể ,và do đó các các đối tượng vật chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác ,và nhờ đó mà ta có thể biết được ,hiểu được và nắm bắt sự vật này .Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học. Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại ,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giácẳng định như vậy một mặt muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất ,vai trò quyết định của nó với vật chất ,và mặt khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người .Nó không chỉ phân biệt chủ nghĩa duy tâm với chủ nghĩa duy vật, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩ duy vật với nhị nguyên luận. Như vậy ,chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn triệt để,nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội ,có ý nghĩa trực tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào vào các dạng các dạng cụ thể của vật chất trong giới vi mô .Nó giúp chúng ta có thái độ khách quan trong suy nghĩ và hành động. 1.1 Ý thức: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì: “ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào

ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba của sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất như vậy thì ý thức cũng như vậy. 1.2 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất Trong mối quan hệ với vật chất, “ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người”. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy vai trò của ý thức không phải là trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những hiểu biết về hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình. Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:

  • Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
  • Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất. Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại … Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa. 1 Ý nghĩa phương pháp luận Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác- Lê nin, ta rút ra được nguyên tắc phương pháp luận: Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoat động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Thứ hai, vì ý thức có sự tác động ngược trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức

đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình. Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:

  • Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
  • Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất. Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại … Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa. 1 Ý nghĩa phương pháp luận Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác- Lê nin, ta rút ra được nguyên tắc phương pháp luận: Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoat động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Thứ hai, vì ý thức có sự tác động ngược trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.

Thứ ba, cần luôn nỗ lực loại bỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong cuộc sống. Đó là việc tránh xa thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, ước muốn, niềm tin của mình để hành động mà không nghiên cứu, đánh giá đầy đủ tình hình các đối tượng vật chất. Thứ tư, khi xem xét các hiện tượng xã hội, cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.