Nhập khẩu thuyết “Tam quyền phân lập” hay lá bài cổ xúy bất ổn chính trị, xung đột quyền lực – BÌNH LUẬN – Tạp chí Cộng sản

Thực tiễn chỉ ra rằng, việc phân định rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là cách thức quan trọng để phát huy vai trò của nhà nước, đồng thời là cơ sở để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Chúng ta đã tiếp thu mặt tiến bộ trong kỹ thuật tổ chức các thiết chế nhà nước trên thế giới, trong đó việc “phân công” và “phối hợp” giữa 3 nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) để tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thể hiện rõ ở các bản hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013.

Tuy vậy, trong thời gian gần đây vẫn còn một số cá nhân lợi dụng việc chậm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp, tình trạng tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và việc hoạt động chưa thật sự hiệu quả của một số thiết chế trong bộ máy nhà nước… để phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước và tung hô, cường điệu hóa, lý tưởng hóa học thuyết “tam quyền phân lập”, coi nó là “phương thuốc vạn năng” cho kiểm soát quyền lực nhà nước và ngăn ngừa tham nhũng. Có thể khẳng định ngay rằng, đó là luận điệu sai trái, cực đoan và cơ hội chính trị. Học thuyết “tam quyền phân lập” được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức và một số nước phương Tây mặc dù có mang lại một số mặt tích cực, cần được nghiên cứu, tham khảo, nhưng không nên vì thế mà cường điệu hóa, lý tưởng hóa và xem nó như là chìa khóa vạn năng của “dân chủ – pháp quyền”, với mấy lý do sau đây:

Một là, về phương diện lý luận, “tam quyền phân lập” là một học thuyết phức tạp, đa chiều, còn có nhiều ý kiến khác nhau. C. Mác và Ph. Ăng-ghen khi nêu ra mặt tiến bộ của học thuyết về tam quyền phân lập đã nhấn mạnh rằng, sự phân chia quyền lực, thực chất, không phải là cái gì khác ngoài sự phân công lao động thực tế cơ cấu nhà nước nhằm làm đơn giản hóa và dễ kiểm soát. Ph. Ăng-ghen viết: “Sự phân quyền… trên thực tế chỉ là một sự phân công lao động tầm thường trong công nghiệp, được vận dụng vào bộ máy nhà nước nhằm mục đích đơn giản hóa và kiểm soát”(1). Dựa trên quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về sự cần thiết của việc phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong hiến pháp, nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng đã có chung quan điểm: Sự phân chia quyền lực là hệ thống các chế định pháp luật - nhà nước hướng tới bảo đảm các phương tiện pháp lý có sự độc lập tương đối của các cơ quan nhà nước với nhau(2). Còn G.V.Ph. Hê-ghen khẳng định rằng, phân chia quyền lực chỉ nên dừng lại ở khái niệm; nếu sự phân chia quyền lực vượt giới hạn của khái niệm và trở thành hiện thực thì quyền lực sẽ không thể nào còn thống nhất lại được nữa. Các nhánh quyền lực tách rời nhau tới mức phân liệt, kiềm chế - đối trọng, đối lập và chống lại nhau. Lúc đó, muốn có được quyền lực nhà nước thống nhất lại phải dùng đến đại bác. Thực tiễn xung đột chính trị ở Liên bang Nga sau khi Liên Xô sụp đổ đã chứng tỏ lời cảnh báo của G.V.Ph. Hê-ghen hoàn toàn có cơ sở khoa học. Khi đó, việc áp dụng máy móc thuyết “tam quyền phân lập” của phương Tây đã đẩy Liên bang Nga vào tình trạng đối đầu, xung đột, không thể thỏa hiệp giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Rốt cuộc, vào tháng 10-1993, Tổng thống Liên bang Nga B. En-xin đã ra lệnh cho xe tăng bắn vào Tòa nhà Quốc hội, sử dụng bạo lực để giải tán Quốc hội Nga do dân bầu lên, chấm dứt xung đột, đối đầu giữa hai phe lập pháp và hành pháp. Nói cách khác, khi quyền lực đã phân chia, đối trọng không thể thống nhất lại được nữa bằng giải pháp chính trị thì B. En-xin đã sử dụng đại bác để thống nhất quyền lực. Cũng từ bài học thực tiễn về việc để mất sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền các địa phương do áp dụng “phân quyền” cực đoan dưới thời Tổng thống Nga B. En-xin, ngày 1-9-2000, cùng với việc ký sắc lệnh thành lập Nhà nước Liên bang Nga với 89 chủ thể – chia thành 7 khu vực Liên bang, Tổng thống Nga V. Pu-tin đã phê chuẩn Quy chế Hội đồng nhà nước, bao gồm: Tổng thống và tất cả những người đứng đầu chủ thể Liên bang. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước là Tổng thống; Thư ký Hội đồng Nhà nước do Tổng thống bổ nhiệm. Cùng với việc ban hành Hiến pháp mới – thay thế cơ chế phân quyền bằng phân công và phối hợp quyền lực, Quy chế Hội đồng Nhà nước là thiết chế ngăn ngừa có hiệu quả sự phân tán quyền lực vô hạn độ, vô tổ chức lúc bấy giờ ở Nga.

Phân quyền là một tư tưởng phức tạp, đa chiều nên được hiểu rất khác nhau. Mỹ, Anh và các nước châu Âu chia quyền lực nhà nước thành ba loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp (xét xử); cùng với đó là ba cơ quan thực hành từng loại quyền lực này một cách độc lập theo cơ chế kiềm chế và đối trọng (kiểm tra và chế ước lẫn nhau). Một số nhà lập pháp Mỹ La-tinh chia quyền lực nhà nước thành bốn loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp (xét xử) và quyền bầu cử (thuộc về tổ chức bầu cử - hội đồng bầu cử). Hiến pháp Ni-ca-ra-goa năm 1986 do Đảng Xã hội – Thiên chúa giáo đối lập đưa ra tới năm loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp (xét xử), quyền bầu cử và quyền kiểm tra. Hiến pháp năm 1976 của An-giê-ri quy định sáu loại quyền, gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, quyền chính trị, quyền kiểm tra và quyền tổ chức….

Phân quyền ngoài được hiểu theo chiều ngang (giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương: lập pháp, hành pháp, tư pháp), còn được hiểu theo chiều dọc (giữa các lực lượng chính trị khác nhau, giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương, giữa nhà nước liên bang với các bang thành viên và giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương).

Hai là, về phương diện thực tiễn, do những hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập” mà mức độ, tính chất và đặc điểm của sự thể hiện và áp dụng nó trong thực tế có sự khác nhau ở mỗi kiểu nhà nước, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như trình độ dân chủ, truyền thống dân tộc, cũng như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Sự áp dụng học thuyết này trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống khác với chính thể cộng hòa đại nghị hoặc chính thể cộng hòa hỗn hợp…; trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang khác với hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất.

Trong chính thể cộng hòa tổng thống, điển hình là nhà nước Mỹ, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực tuyệt đối “cứng rắn”, tách biệt triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thay cho cơ chế chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp là cơ chế “kiềm chế và đối trọng”. Theo đó, có sự độc lập hoàn toàn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong thực thi quyền lực nhà nước; sự phân quyền giữa nhà nước liên bang với nhà nước tiểu bang.