1. Không có bằng chứng, chứng cứ có được kết tội không?
Trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, người tiến hành tố tụng phải thu thập cả chứng cứ buộc tội lẫn gỡ tội. Khi không đủ bằng chứng hoặc không chứng minh được hành vi phạm tội của một cá nhân thì về nguyên tắc phải suy đoán theo hướng người đó không có tội. Bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình có tội nhưng được tại điều kiện để chứng minh mình không phạm tội.
- Cự Giải và Ma Kết có hợp không? Quan điểm khi yêu và một số điều thú vị trong tình yêu của Ma Kết và Cự Giải
- 2 cách chiên đậu hũ bằng nồi chiên không dầu đơn giản, đậu giòn cực lâu
- ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- Phụ nữ sau sinh có được cắt móng tay không? Bao lâu được cắt?
- Gội đầu sau sinh có ảnh hưởng gì không? Thời gian thích hợp để gội đầu
Để tránh án oan, người tiến hành tố tụng phải sử dụng những chứng cứ đã được phát hiện, thu thập theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ thu thập được sử dụng phải là chứng cứ hợp pháp qua quá trình điều tra, trinh sát, được kiểm tra, xác minh đầy đủ, phải đảm bảo đầy đủ sự tin cậy vững chắc. Khi ra một quyết định tố tụng kết luận về bất cứ vấn đề nào đó hay toàn bộ mọi vấn đề trong vụ án, người tiến hành tố tụng phải sử dụng tổng hợp mọi chứng cứ, đánh giá khách quan, không xem nhẹ chứng cứ nào.
Bạn đang xem: Không có đủ bằng chứng, chứng cứ có kết tội được không?
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm và người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Mọi nghi ngờ phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Nếu có nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo mà không thể bổ sung gì hơn được về chứng cứ hoặc không có bằng chứng chứng minh về lỗi của bị can, bị cáo thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi phải có căn cứ xác định bị cáo vô tội. Hay nói cách khác, trong giai đoạn xét xử mà không thể thu thập được chứng cứ chứng minh tội phạm, không thể kết luận được những nội dung chủ yếu về việc có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; người thực hiện hành vi phạm tội là ai, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo thì Tòa án không kết tội bị cáo.
Chính vì vậy, Bản án kết tội của Tòa án phải là bản án có đủ các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh được là bị cáo có tội. Nếu không có đủ bằng chứng, chứng cứ chứng minh người đó có tội thì phải áp dụng triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội để không kết tội bị cáo, bảo đảm quyền công dân.
2. Quy định về nguyên tắc “Suy đoán vô tội”:
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc của nền tố tụng dân chủ, theo đó người bị buộc tội được suy đoán vô tội khi không đủ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục luật định và chưa được xác định bởi phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Tinh thần của nguyên tắc này được thể hiện rõ ở Khoản Điều 13 Hiến pháp năm 2013 và Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Theo đó, nội dung của nguyên tắc “Suy đoán vô tội” được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi hành vi của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng quy định và chỉ có thể bị coi là có tội khi đã có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Nguyên tắc này khẳng định xác định một người có tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật và chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán quyết bản án đó. Chừng nào chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị buộc tội vẫn là người vô tội. Hay thời gian được xác định suy đoán vô tội của người bị buộc tội là từ thời điểm Viện kiểm sát buộc tội đến thời điểm bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định nói trên thì một người dù có bị tạm giữ, bị khởi tố bị can, bị tạm giam, đã bị xét xử sơ thẩm và bản án sơ thẩm đó chưa có hiệu lực pháp luật thì vẫn chưa phải là người có tội. Họ được xem là người bị tình nghi, người đã có hành vi phạm tội, đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó.
Thứ hai, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục luật định thì phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Mọi nghi ngờ trong quá trình tố tụng đều phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả ba giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử mà ở mỗi giai đoạn từng chủ thể phải có nghĩa vụ chứng minh tội phạm ở giai đoạn của mình phụ trách và chịu trách nhiệm về việc chứng minh đó. Mục đích phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội phải thực hiện theo hướng “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”, đảm bảo quyền và lợi ích cho người bị buộc tội.
Thứ ba, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận (ra quyết định) trả tự do hoặc tuyên bố người bị buộc tội không phạm tội.
Người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm chứng minh và xác định rõ ràng các căn cứ là có tội được quy định trong Bộ luật hình sự; phải đảm bảo xem xét các tình tiết vụ án một cách khách quan, đầy đủ. Trong giai đoạn điều tra, truy tố nếu không chứng minh được bị can đã thực hiện hành tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định đình chỉ vụ án khi thời hạn điều tra đã hết. Còn trong giai đoạn xét xử nếu không đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thì Hội đồng xét xử ra bản án tuyên bố bị cáo vô tội.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc “suy đoán vô tội”:
– Suy đoán vô tội là một nguyên tắc có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung và quá trình chứng minh nói riêng; giúp hoạt động chứng minh được thực hiện đúng quy định pháp luật, theo trình tự thủ tục nhất định và loại trừ những yếu tố, vấn đề còn nghi ngờ về hành vi phạm tội. Đảm bảo sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa một bên là nhà nước (cơ quan điều tra, truy tố, xét xử) hùng mạnh được thực hiện bằng quyền lực nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị buộc tội, đảm bảo người bị buộc tội không bị phân biệt đối xử.
Xem thêm : 10 cách tẩy tế bào chết bằng sữa tươi hiệu quả cho mặt và body
– Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng mang ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTHS; duy trì trật tự và tạo điều kiện cho việc phát huy, bảo đảm các quyền cá nhân, sự công bằng, khách quan. Nang cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Suy đoán vô tội có nội dung quan trọng bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phản ánh bản chất nhân văn của pháp luật dân chủ và pháp quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, loại trừ việc buộc tội và kết án thiếu căn cứ. 4
4. Những chứng cứ nào được sử dụng để buộc tội?
Chứng cứ là phương tiện duy nhất để chứng minh trong vụ án hình sự. Để xác định một người có tội hay không thì cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiên cứu, ghi nhận chứng cứ, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, xem xét đầy đủ và toàn diện các tình tiết vụ án để tìm ra chân lý sự thật khách quan để từ đó đưa ra được căn cứ buộc tội đối với bị can, bị cáo. Như vậy, nhận thức đúng đắn về chứng cứ có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội.
Căn cứ theo quy định tại điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguồn chứng cứ gồm có: Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; Các tài liệu, đồ vật khác. Nguồn chứng cứ phải được thu thập theo đúng quy định của pháp luật, những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục theo quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, theo quy định tại điều 98 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nêu rõ rằng lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án và không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp