Góc học tập

Đỗ Văn Tính

Kinh tế hộ gia đình và quản lý kinh tế hộ gia đình

Kinh tế hộ gia đình

Hộ gia đình

Theo Martin năm 1988: Hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản xuất (SX), đến tiêu dùng và các hoạt động khác.

Theo Raul, năm 1989: Hộ là những người có cùng chung huyết tộc, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính bản thân mình và cộng đồng.

Hộ gia đình là chủ thể tham gia giao kết hợp đồng một cách thường xuyên, nhất là đối với các hợp đồng có đối tượng là quyền sử dụng đất. Khái niệm hộ gia đình được ghi nhận tại Điều 106 Bộ luật Dân sự 2005, theo đó: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”.

Tuy nhiên, cách thức xác định hộ gia đình cũng như phương thức để hộ gia đình tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 lại có nhiều thay đổi so với nội dung kể trên, theo xu thế nghiêng về từng thành viên của hộ gia đình trực tiếp hay cử người đại diện tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Đây chính là điều cần lưu ý lớn trong quá trình thực hiện các vấn đề pháp lý liên quan,

Như vậy, các cá nhân và các tổ chức khi nhìn nhận và quan niệm về hộ không giống nhau. Tuy nhiên, trong đó có những nét chung để phân biệt về hộ đó là: Chung hay không cùng chung huyết tộc (huyết tộc và quan hệ hôn nhân); Cùng chung sống dưới một mái nhà; Cùng chung một nguồn thu nhập (ngân quỹ); Cùng ăn chung; Cùng sản xuất chung.

Hộ gia đình trước hết là một tổ chức kinh tế có chất hành chính và địa lý. Ở nông thôn có nhiều kiểu tổ chức hộ gia đình, như: hộ gia đình nông nghiệp (thuần nông), hộ gia đình nông – phi nông nghiệp (hỗn hợp), hộ gia đình phi nông nghiệp (phi nông).

Ngoài ra, hộ gia đình còn là đơn vị kinh tế cơ sở, tức là vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị tiêu dùng, vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là đơn vị xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước có sự phát triển đáng kể, đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống vẫn còn một bộ phận dân cư phải sống trong cảnh khó khăn, đói nghèo. Chính vị vậy, phát triển kinh tế hộ gia đình là một biện pháp cần thiết, có tác động trực tiếp tới đời sống của người dân.

Tóm lại, có thể hiểu Hộ gia đình hay còn gọi đơn giản là hộ là một đơn vị xã hội bao gồm một hay một nhóm người ở chung và ăn chung nhân khẩu . Đối với những hộ có từ 2 người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hay không có quỹ thu chi chung hoặc thu nhập chung. Hộ gia đình không đồng nhất với khái niệm gia đình, những người trong hộ gia đình có thể có hoặc không có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc hôn nhân hoặc cả hai.

Kinh tế hộ gia đình

Có thể hiểu kinh tế hộ gia đình là tế bào kinh tế xã hội được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục, tâm linh, tâm lý, đạo đức. Là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông dân và nông thôn. Kinh tế hộ đã tồn tại từ rất lâu ở các nước nông nghiệp, tự chủ trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp, là pháp nhân kinh tế, bình đẳng trước pháp luật và là chủ thể nền kinh tế thị trường.

Kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế, trong đó các hoạt động sản xuất chủ yếu dựa vào lao động gia đình (là tất cả những người trong gia đình có khả năng lao động và sẵn sàng tham gia lao động để sản xuất hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của gia đình hoặc xã hội). Mục đích của loại hình kinh tế này trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình (không phải mục đích chính là sản xuất hàng hóa để bán). Tuy nhiên, các hộ gia đình cũng có thể sản xuất để trao đổi nhưng ở mức độ hạn chế.

Kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia đình, trong đó các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Sự trường tồn của hình thức sản xuất này đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình cũng có vai trò và ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế thị trường với gần 80% dân số đang sinh sống ở nông thôn với xuất phát điểm thấp, kinh tế hộ gia đình đang là một đơn vị sản xuất phổ biến. Đây là mô hình kinh tế có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Như vậy, có thể khái quát một cách chung nhất về kinh tế hộ gia đình như sau: Kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia đình, trong đó các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định.

Bản chất của kinh tế hộ gia đình

Kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế, trong đó các thành viên hoạt động và làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội.

Kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế thích nghi nhất với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nơi mà các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi sự quan tâm sát sao, sự chăm sóc đúng lúc của con người. Đất đai và các tư liệu sản xuất khác đòi hỏi một sự bảo quản và bồi dưỡng hợp lý từ người sử dụng, một yêu cầu mà không hình thức sản xuất nào khác đáp ứng được.

Kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế phổ biến mang tính chất đặc thù ở mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi nước trên thế giới.

Kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở vừa sản xuất, vừa tiêu dùng mà người ta thường gọi tự cấp tự túc sản ph m mà hộ làm ra có thể được tiêu dùng luôn với vai trò là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.

Cũng như những thành phần kinh tế khác, kinh tế hộ gia đình phải vận dụng tổng hợp các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế khách quan trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.

Kinh tế hộ gia đình không những giải quyết tốt các mục tiêu của hộ gia đình làm nông nghiệp mà còn giải quyết tốt vấn đề môi trường sinh thái và vấn đề xây dựng nông thôn mới.

Đặc trưng của kinh tế hộ gia đình

Kinh tế hộ gia đình đang tồn tại và phát triển với vai trò là một đơn vị sản xuất cơ sở của nông nghiệp, nông thôn. Là một thành phần kinh tế độc lập, tự chủ cùng các thành phần kinh tế khác hình thành lên nền kinh tế thị trường của nước ta hiện hay. Kinh tế hộ gia đình sẽ luôn là một tế bào bền vững và phát triển lành mạnh trong nền kinh tế, nó mang những đặc trưng cơ bản sau đây:

– Đặc trưng về sở hữu: Tuy không được sở hữu về đất đai nhưng hộ gia đình làm nông nghiệp lại được nhà nước giao quyền sử dụng ổn định và lâu dài. Đó là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của mọi quá trình sản xuất trong nông nghiệp. Mọi tư liệu sản xuất khác đều thuộc quyền sở hữu của các thành viên trong hộ, và tất nhiên mọi sản ph m làm ra đều thuộc quyền sở hữu của gia đình. Tất cả những điều này tạo lên sự khác biệt giữa sở hữu hộ và sở hữu tư nhân trong sở hữu tập thể.

– Đặc trưng về mục đích sản xuất: Mục đích sản xuất của kinh tế hộ gia đình được xác định chủ yếu trên cơ sở đảm bảo nhu cầu về lương thực và thực phẩm cho hộ, một số ít dư thừa được đem ra để trao đổi. Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển, mục tiêu đảm bảo nhu cầu của hộ sẽ giảm dần và thay vào đó là sản xuất hàng hoá nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các thành viên, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình.

– Đặc trưng về lao động: Thường thì các hộ gia đình kinh doanh không thuê lao động mà chỉ sử dụng những thành viên trong gia đình. Trong các ngành kinh tế khác, việc sử dụng lao động là trẻ em và người lớn tuổi là không được phép nhưng trong kinh tế hộ gia đình nông nghiệp thì lao động trẻ em và người lớn tuổi đóng một vai trò rất đáng kể, hai lao động trẻ em hoặc người lớn tuổi được tính bằng một lao động chính. Mọi lao động trong hộ gia đình làm việc với tính tự giác cao, tự chủ vì lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội.

– Đặc trưng về mặt tổ chức: Tổ chức của hộ gia đình rất đơn giản, gọn nhẹ chỉ bao gồm những người trong gia đình, trong bộ tộc có quan hệ hôn nhân và huyết thống. Điều khiển mọi quá trình sản xuất chủ yếu là người chủ gia đình trên cơ sở thứ bậc, hiệu lực cao bởi kỷ cương, lề nếp mang tính truyền thống.

– Đặc trưng về hoạt động kinh tế hộ: Hoạt động kinh tế của hộ gia đình khá đa dạng và phong phú, có thể tiến hành sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề. Có tính phù hợp và tự điều chỉnh cao, với mỗi thay đổi của môi trường sản xuất kinh doanh thì hoạt động kinh tế của hộ có thể tự điều chỉnh để phù hợp.Tuy nhiên sự tự phù hợp đó nhanh hay chậm, chính xác hay không còn phụ thuộc vào điều kiện và khả năng của mỗi thành viên trong hộ.

– Đặc trưng về phân phối: Các sản ph m do hộ gia đình sản xuất ra trước hết được phân phối đều theo nhu cầu của các thành viên trong gia đình, phần còn dư thừa được đem bán hoặc trao đổi theo sự thống nhất giữa mọi thành viên trong gia đình.

Với những đặc trưng như đã nêu ở trên, kinh tế hộ nông dân thực sự là thành phần kinh tế phù hợp với yêu cầu của mọi nền kinh tế đang tồn tại, nó là một trong năm thành phần kinh tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Vai trò của kinh tế hộ gia đình

Ở nước ta, kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình nông dân. Họ là đơn vị sản xuất cơ bản ổn định, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, đất đai là yêu tố quan trọng nhất trong tư liệu sản xuất của hộ nông dân.

Kinh tế hộ gia đình là thành phần không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Kinh tế hộ gia đình phát triển góp phần thúc đẩy nền kinh tế nói chung, kinh tế nông thôn nói riêng phát triển. Từ đó tăng nguồn thu ngân sách địa phương cũng như ngân sách nhà nước.

Kinh tế hộ gia đình có tính cơ động, linh hoạt và có khả năng tự điều chỉnh cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với đặc điểm sinh thái của sản xuất nông nghiệp, khai thác có hiệu quả tiềm ăng có sẳn từ tự nhiên phục vụ cho phát triển kinh tế.

Kinh tế hộ gia đình nông thôn góp phần cung một khối lượng lớn lương thực thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng, đồng thời là thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành kinh tế góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội, là động lực khai thác tiềm năng, tận dụng các nguồn lực vốn, lao động, đất đai, tài nguyên đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội.

Vì vậy, cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm cho người lao động, ổn định trật tự xã hội, nâng cao trình độ dân trí, sức khỏe, đời sống cho người dân.

Quản lý kinh tế hộ gia đình và sự cần thiết quản lý kinh tế hộ gia đình

Quản lý nhà nước đối với kinh tế hộ gia đình

Nhà nước quản lý kinh tế, trong đó có kinh tế hộ gia đình là một xu hướng tất yếu không của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, vì đất nước muốn phát triển, muốn đi lên tất yếu phải đi từ kinh tế, phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu để phát triển đất nước, để nền kinh tế đi đúng hướng và phát triển thì phải có sự quản lý của xã hội chính là nhà nước, chỉ có nhà nước mới giúp nền kinh tế đi đúng hướng, để các loại hình kinh tế khác cùng với kinh tế hộ gia đình trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Để quản lý kinh tế hộ gia đình, nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý, làm cho kinh tế hộ gia đình tăng trưởng, đi đôi với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hỗ trợ và tạo điều kiện để kinh tế hộ gia đình phát triển theo pháp luật. Vì vậy, có thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế hộ gia đình như sau:

Quản lý nhà nước đối với kinh tế hộ gia đình là sự tác động có tổ chức bằng chính sách và pháp luật đối với kinh tế hộ gia đình nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt mục tiêu phát triển kinh tế hộ gia đình.

Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với kinh tế hộ gia đình

Kinh tế hộ gia đình là nòng cốt cùng với các loại hình kinh tế khác, chịu sự quản lý của nhà nước cũng giống như các doanh nghiệp, hộ gia đình có quyền và nghĩa vụ giống như các doanh nghiệp; nói cách khác, nhà nước tôn trọng và bảo hộ sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của hộ gia đình; quản lý nhà nước trước hết là quản lý theo ngành kinh tế, nhà nước quản lý và hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình. Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương, chính sách nhất quán nhằm khuyến khích kinh tế hộ phát triển. Điều đó được khẳng định qua việc, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ người nông dân, ví dụ như chương trình đào tạo nghề, chính sách hỗ trợ tín dụng… Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến các hộ nông dân nghèo thông qua việc hỗ trợ về giống cây trồng vật nuôi; KHKT và cả chi phí sản xuất. Đây là nguồn thúc đẩy quan trọng để giúp các hộ gia đình nông dân, đặc biệt là hộ nghèo được tiếp cận với KHKT, nâng cao thu nhập, góp phần phát triển kinh tế.

Ngành nông nghiệp là một bộ cấu thành nền kinh tế quốc dân được vận hành theo cơ chế thị trường nên cần có sự quản lý nhà nước là tác động để phát triển.

Nhà nước quản lý vĩ mô ngành nông nghiệp bằng cách định ra các mục tiêu chung của nền kinh tế, hệ thống công cụ quản lý nhà nước là toàn bộ phương tiện được nhà nước sử dụng để tác động vào sản xuất kinh doanh nông sản nhằm thúc đẩy phát triển theo hướng nhất định.

Trong cơ chế thị trường, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân đối với ngành nông nghiệp là một công cụ quan trọng của nhà nước nhằm định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở tầm vĩ mô, để trên đó mà ngành nông nghiệp bố trí, huy động các nguồn lực cho sản xuất nông sản một cách hợp lý nhất để khai thác triệt để lợi thế so sánh của nông nghiệp nước ta nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, ý tưởng mà sự phát triển nông nghiệp cần đạt tới, phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước. Nhưng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, kế hoạch kinh tế quốc dân có tính chất pháp lệnh và chỉ đạo theo phương thức giao nhận và chấp hành kế hoạch còn hiện nay, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân có tính chất hướng dẫn, chỉ đạo theo định hướng của kế hoạch hoá.

Hệ thống công cụ chính sách kinh tế giúp nhà nước điều khiển hoạt động của các chủ thể kinh tế doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân… . Nhờ các chính sách kinh tế mà chủ thể kinh tế trong ngành nông nghiệp đã hành động phù hợp với lợi ích chung của xã hội, tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm nông nghiệp.

Thế chế hoá pháp luật và các chính sách kinh tế là điều kiện cần thiết để đưa chúng vào thực tiễn phát triển nông sản hàng hoá, ví dụ như luật đất đai thực hiện vào cuộc sống nó thể hiện quyền sử dụng đất đối với hộ nông dân tạo điều kiện tập trung ruộng đất để sản xuất nông sản hàng hoá. Pháp luật kinh tế trong nông nghiệp tạo ra hành lang pháp lý cho doanh nghiệp bảo vệ quyền tự do cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế nông nghiệp phát triển. Tóm lại chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến phát triển sản xuất nông sản hàng hoá. Nếu có phù hợp giữa các chính sách vĩ mô của nhà nước và điều kiện cần thiết để sản xuất hàng hoá thì sẽ tạo điều kiện tốt cho phát triển nông sản hàng hoá, ngược lại nếu không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.

Nhà nước quản lý kinh tế hộ gia đình vì các lý do sau:

Thứ nhất, xuất phát từ vai trò quan trọng của kinh tế hộ gia đình trong phát triển kinh tế

– Đóng góp vào GDP, phát triển thị trường lao động và việc làm.

– Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá.

– Cung cấp hàng hoá dịch vụ giá rẻ cho xã hội, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của người dân theo các khu vực thị trường khác nhau, góp phần phát triển kinh tế.

Thứ hai, chỉ có nhà nước bằng các công cụ và nguồn lực của mình mới có thể hỗ trợ, thúc đẩy phát triển đối với kinh tế hộ gia đình

Nhà nước tạo lập khung khổ pháp luật cho kinh tế hộ gia đình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu quả, chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này; từ đó, đòi hỏi nhà nước phải có sự quản lý tập trung để định hướng, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua việc nhà nước xây dựng Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật tạo dựng khung khổ pháp luật cho phát triển kinh tế hộ gia đình; Nhà nước ngày càng hoàn thiện khung khổ pháp luật về quản lý nhà nước đối với kinh tế hộ gia đình thông qua những lần sửa đổi, bổ sung.

Nhà nước đã quy định các chính sách hỗ trợ, ưu đãi riêng đối với kinh tế hộ gia đình, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp; ngoài các chính sách hỗ trợ, ưu đãi trên còn được hưởng thêm các mục ưu đãi nữa về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động; tín dụng; vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh;

Thứ ba, xuất phát từ những khó khăn trong phát triển kinh tế hộ gia đình

Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với kinh tế hộ gia đình xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế nói chung và kinh tế hộ gia đình nói riêng, mà còn xuất phát từ tính “đặc thù” của kinh tế hộ gia đình. Kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế cá thể của những thành viên là những hộ nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán nhỏ, người tiêu dùng, là những người có địa vị kinh tế hạn chế trong xã hội, không thể tự mình giải quyết được những khó khăn về vốn, kỹ thuật, quản lý, thị trường,…để sản xuất kinh doanh, việc làm. Nếu góp vốn vào các công ty, xí nghiệp với số vốn ít ỏi, thì lợi tức cổ tức thấp, hơn nữa còn có nhiều rủi ro mà bản thân người góp vốn không thể kiểm soát được. Vì vậy, cách tốt nhất là tự bỏ vốn làm ăn, nguồn vốn theo khả năng, mục đích chính là để khai thác tiềm năng, lợi thế của chính mình, góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Hoạt động sản xuất kinh doanh của những người sản xuất nhỏ chỉ độc lập một cách tương đối, họ thường độc lập trong việc đối phó với thiên nhiên, trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, trong việc cung cấp các dịch vụ sản xuất,…rõ ràng họ dễ bị yếu thế hơn do thiếu sự hợp tác so với các loại hình kinh tế khác. Do vậy, nếu thiếu sự tuyên truyền, động viên, giáo dục và sự hỗ trợ của nhà nước thì kinh tế hộ gia đình sẽ không phát triển.

Nội dung quản lý kinh tế hộ gia đình

– Ban hành, tuyên truyền và phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật về kinh tế hộ gia đình.

– Xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế hộ gia đình.

– Thực hiện các chính sách hỗ trợ, liên kết phát triển kinh tế hộ gia đình.

– Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật về kinh tế hộ gia đình.

– Công tác tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế hộ gia đình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009), Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT, Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Hà Nội.

[2] Nguyễn Văn Công (2013), Phát triển kinh tế hộ nông dân tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 5.

[3] Trần Xuân Châu (2003), Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[4] Nguyễn Đình Điền (2000), Trang trại gia đình, bước phát triển của kinh tế hộ

nông dân, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[5] Bùi Thanh Hà (2012) Điều cần biết để phát triển kinh tế hộ gia đình, NXB

Thanh Hóa.

[6] X. V. Mai (2010), Giáo trình phân tích kinh tế nông hộ, Đại học Huế.

[7] X. T. Mai và H. T. Đặng (2013), “Phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam”, “tạp chí khoa học Kinh tế và Kinh doanh”.