Con tê tê và vị thuốc sơn xuyên giáp

Video máu con tê tê có tác dụng gì

Tê tê còn gọi là con trút (tên gọi dân dã ở miền Trung và miền Nam), người Ba Na ở Tây Nguyên gọi là prên pui. Vảy của nó là một vị thuốc rất quý, thường được dùng chữa sốt rét lâu năm, tắc tia sữa, rắn cắn…

Tê tê là một loài động vật sống hoang dã có đặc điểm dễ nhận là toàn thân và đuôi (trừ bụng) phủ một lớp sừng xếp thành nhiều hàng như ngói lợp, có thể cuộn tròn lại khi gặp nguy hiểm. Ở hầu hết các tỉnh vùng núi và trung du miền Bắc, các tỉnh Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long đều có tê tê. Hằng năm, vào khoảng tháng 5-11, người ta lùng bắt tê tê để lấy thịt ăn và vảy làm thuốc. Khi bắt được tê tê (dù còn sống hay đã chết), phải cho ngay vào nồi nước, luộc chín hoặc ngâm con vật trong nước vôi trong, da thịt sẽ mềm ra, rồi mới rút lấy vảy. Có khi người ta đập chết tê tê, lột lấy cả tấm da còn nguyên vảy, phơi khô; khi dùng mới rút từng chiếc vảy và chế biến. Người ta cho rằng vảy ở đuôi tê tê có tác dụng mạnh hơn, do đó, khi thu hoạch và chế biến, cần để riêng. Loại vảy rời từng chiếc một đã khô thuộc loại 1, vảy còn dính trên tấm da là loại 2.Thịt tê tê ít được dùng làm thuốc, thường chế biến thành những món ăn ngon và lạ miệng như thịt nhím, cheo, lợn rừng, cầy giông trong các nhà hàng đặc sản. Trái lại, ở Trung Quốc, thịt tê tê ninh nhừ, thêm muối, ăn để chữa viêm da dị ứng, phối hợp với xuyên khung và đương quy giúp tăng tiết sữa. Một số thầy thuốc y học cổ truyền cho rằng, thịt và mật tê tê có thể chữa được bệnh lao và một số bệnh khác về phổi.Vảy, bộ phận dùng quý nhất của tê tê, là những mảnh dẹp phẳng, to nhỏ không đều, hình tam giác hoặc hình thuẫn (giống chiếc vỏ trai), góc tròn, dày lên ở giữa, quanh mép mỏng. Mặt trên màu nâu xám hoặc đen hơi xanh, nhẵn bóng, có những đường vân dọc rất sít nhau và những đường vân ngang thưa hơn theo rìa mép. Mặt dưới màu nhạt hơn, không bóng, có một đường ngang hình cung hằn lên ở chính giữa. Chất cứng như sừng, hơi trong, khó bẻ gãy.Dược liệu trên ít được dùng sống mà thường ngâm với nước vôi loãng (10 vôi tôi với 3 lít nước) rồi phơi khô, sau đó, sao với cát cho phồng lên và vàng đều. Hoặc sao cát xong, khi vảy còn nóng, đổ ngay vào giấm với tỷ lệ 500 ml giấm cho 1 kg vảy, khuấy đều, vớt ra, rửa lại bằng nước sạch, rồi phơi khô. Có khi còn đem vảy tẩm mỡ hoặc dầu ăn mà rán hoặc đốt vảy thành than tồn tính mà dùng.Trong y học cổ truyền, vảy tê tê có tên thuốc là xuyên sơn giáp, vị mặn, mùi hơi tanh, tính hơi lạnh, không độc, vào 2 kinh can và vị, có tác dụng giải độc, tiêu viêm, giảm đau, sát khuẩn, giảm sốt, lợi sữa, được dùng trong những trường hợp sau:Chữa sốt rét lâu năm: Vảy tê tê và hạt gấc (mộc miết tử) lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn. Mỗi lần uống 12 g với rượu vào lúc đói.Chữa tắc tia sữa: Vảy tê tê 15 g, lõi thông thảo 10 g, cắt nhỏ, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày. Hoặc vảy tê tê 20 g, thiên hoa phấn 20 g băm nhỏ, hầm nhừ với chân giò lợn, ăn cả cái lẫn nước. Trước đây, có biệt dược Mamato làm tăng tiết sữa được bào chế từ vảy tê tê và cây vương bất lưu hành.

Chữa rắn cắn: Vảy tê tê 20 g, giun đất 20 g (sao vàng), hạt mã tiền 6 g (đã chế biến để giải độc), phèn chua phi 2 g. Tất cả giã nhỏ, sắc uống trong ngày.Chữa sưng lá lách: Bột vảy tê tê 5 g cho vào một quả trứng vịt sống bằng một lỗ nhỏ ở đầu trứng, bịt kín lỗ, luộc chín. Ăn trong ngày vào lúc sáng sớm. Dùng liều 7-10 ngày.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống