Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng?

Video mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng

Bản chất là gì? Hiện tượng là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng? Đó là, phương pháp luận? Phải chăng bản chất và hiện tượng cũng mâu thuẫn? Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy tâm không nhận thức hoặc hiểu đúng về sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, họ cho rằng bản chất không thực sự tồn tại, bản chất chỉ là cái tên hư không. chỉ là tổng hợp các cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ thể của con người. Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan, mặc dù thừa nhận sự tồn tại thực sự của tự nhiên, nhưng theo họ, bản thân nó không phải là sự vật, mà chỉ là những thực thể tinh thần. Vậy bản chất là gì? Ý nghĩa phương pháp luận, mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng?

mối quan hệ biện chứng bản chất và hiện tượng
mối quan hệ biện chứng bản chất và hiện tượng

1. Bản chất là gì?

Bản chất là một phạm trù triết học chỉ tổng hợp những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, ổn định tương đối bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật đó. Chẳng hạn, trong xã hội có giai cấp, bản chất của nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội. Bản chất này thể hiện dưới nhiều hình thức cụ thể khác nhau tuỳ theo quan hệ giai cấp trong xã hội. Bản chất gắn liền với cái chung, nhưng tất cả cái chung không phải là bản chất. Chỉ những cái chung quy định sự phát triển và vận động của sự vật mới là cái chung.

Ví dụ, người Việt Nam (nói chung) có điểm chung là tóc đen và da vàng. Nhưng tóc đen da vàng không phải là bản chất chung của người Việt Nam. Bản chất và quy luật là những phạm trù ngang hàng, nhưng bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật. Tóm lại, bản chất là tổng thể tổng hòa các mặt, các mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật đó. Ví dụ: Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong cuộc sống. Nếu ai đó không có mối liên hệ xã hội nào, dù chỉ một chút, thì người đó không phải là con người theo đúng nghĩa của từ này.

2. Hiện tượng là gì?

Hiện tượng là sự biểu hiện những mặt bên ngoài và những mối liên hệ về bản chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Màu da cụ thể của một người là trắng, vàng hay đen… chỉ là một hiện tượng, một vẻ bề ngoài. Như vậy, bản chất là mặt bên trong, tương đối ổn định của hiện thực khách quan. Nó ẩn sau vẻ bề ngoài của hiện tượng và thể hiện qua chúng. Mặt khác, các hiện tượng là mặt bên ngoài, cơ động hơn và hay thay đổi của thực tại khách quan. Đó là hình thức biểu hiện của tự nhiên.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng sau:

3.1. Bản chất và các hiện tượng tồn tại khách quan trong đời sống: Bản chất và hiện tượng là có thật, tồn tại khách quan, không cần biết con người có nhận thức được điều đó hay không. Lý do là: Tất cả mọi thứ được tạo thành từ các yếu tố nhất định. Các yếu tố này tham gia trong mối quan hệ qua lại với nhau, lồng vào nhau, trong đó tất nhiên có những mối quan hệ tương đối ổn định. Những quan hệ này tạo thành bản chất của sự vật. Sự vật tồn tại khách quan. Nhưng quan hệ tất nhiên là tương đối ổn định bên trong sự vật nên đương nhiên nó cũng tồn tại khách quan. Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện bản chất ra bên ngoài mà chúng ta nhìn thấy được, do đó hiện tượng cũng tồn tại khách quan.

3.2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Không chỉ tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối quan hệ hữu cơ, quan hệ với nhau rất chặt chẽ. đ

3.3. Vạn vật là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Sự thống nhất này trước hết được thể hiện ở chỗ: Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng. Tất cả bản chất tự bộc lộ thông qua các hiện tượng tương ứng. Hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của bản chất. Mọi hiện tượng đều là biểu hiện của bản chất ở mức độ ít hay nhiều. Về cơ bản, bản chất và hiện tượng tương thích với nhau. Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào không phải là biểu hiện của một bản chất nhất định.

3.4. Bản chất khác sẽ bộc lộ hiện tượng khác: Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng cũng thay đổi. Khi bản chất biến mất, hiện tượng biểu hiện của nó cũng biến mất. – Chính nhờ sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện muôn hình, muôn vẻ của nó mà tìm thấy điểm chung ở nhiều hiện tượng, đặc biệt là phát hiện ra quy luật phát triển của các sự vật đó. hiện tượng.

4. Ý nghĩa phương pháp luận:

Để nhận thức đúng sự thật, hiện tượng không phải dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà phải đi đến bản chất. Nó phải trải qua nhiều hiện tượng khác nhau để nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư duy của con người đi sâu vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”. Nhiệm vụ của nhận thức nói chung và của khoa học nhận thức nói riêng là phác họa bản chất của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất, không dựa vào hiện tượng. – Vì bản chất của tồn tại khách quan là ở bên trong bản thân sự vật, nên chỉ có thể phát hiện ra bản chất của sự vật ở bên trong sự vật chứ không phải ở bên ngoài. Để kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta phải tránh những nhận định chủ quan, võ đoán. – Vì bản chất không tồn tại ở dạng thuần túy mà luôn bộc lộ ra bên ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của nó, nên chỉ có thể tìm ra bản chất trên cơ sở nghiên cứu sự vật hiện tượng. Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng khác nhau phải xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Sở dĩ như vậy là do các sự vật hiện tượng luôn biểu hiện bản chất của chúng dưới những hình thức đã bị biến đổi, có khi làm sai lệch bản chất. Nhưng trong một hoàn cảnh nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định, không bao giờ người ta có thể xem xét đầy đủ tất cả các hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Vì vậy, chúng ta phải ưu tiên xem xét các hiện tượng điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Tất nhiên, kết quả xem xét như vậy có thể chưa phản ánh hết bản chất của sự việc. Nhưng điều đó chỉ phản ánh một mức độ nhất định của nó. Quá trình đi vào sự hiểu biết ở cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu hơn vào bản chất của sự vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, vô tận. Vì vậy, khi kết luận về bản chất sự việc, chúng ta phải hết sức thận trọng.

5. Bản chất và hiện tượng cũng mâu thuẫn nhau:

Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng. Tức là trong sự thống nhất này có sự khác biệt. Nói cách khác, bản chất và hiện tượng tuy thống nhất với nhau, về bản chất tương thích với nhau, nhưng không bao giờ hoàn toàn tương thích với nhau. Sở dĩ như vậy vì bản chất của sự vật luôn thể hiện qua sự tương tác của sự vật đó với sự vật xung quanh. Những thứ xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa đến những thay đổi nhất định trong nội dung của hiện tượng. Do đó, hiện tượng biểu hiện nhưng bản chất không phải là biểu hiện. Sự vắng mặt hoàn toàn trùng hợp làm cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trở thành sự thống nhất mâu thuẫn. Mâu thuẫn về sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở: Bản chất phản ánh tính tất yếu chung, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Như vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện thành vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến thiên của điều kiện và hoàn cảnh.

Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng không chỉ phụ thuộc vào bản chất, mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà bản chất đó biểu hiện. Vì vậy, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu xa hơn hiện tượng. Bản chất là mặt ẩn sâu bên trong của hiện thực khách quan. Hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan này. Các hiện tượng biểu hiện bản chất của chúng không phải ở dạng nguyên dạng như bản chất vốn có của chúng mà ở dạng biến đổi, thường xuyên làm sai lệch nội dung đích thực của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần của thước vào chậu nước, ta thấy thước bị cong, trong khi thực tế thước vẫn thẳng.

– Tính chất tương đối ổn định, diễn biến chậm. Còn hiện tượng bất ổn thì luôn thoáng qua, biến đổi nhanh hơn bản chất. Sở dĩ có tình trạng đó là vì nội dung của một hiện tượng không chỉ do bản chất của sự vật, mà còn do điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, do tác động qua lại của nó với sự vật xung quanh quyết định. Những điều kiện tồn tại bên ngoài này và sự tương tác của vật này với vật khác không ngừng thay đổi. Như vậy, hiện tượng không ngừng thay đổi, trong khi bản chất vẫn như cũ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên từ khi sinh ra cho đến khi chết. Bản chất cũng thay đổi, nhưng thay đổi rất chậm so với hiện tượng.