Hồ sơ – Sự kiện – Nhân chứng

I. SỰ RA ĐỜI, TÔN CHỈ MỤC ĐÍCH CỦA LIÊN HỢP QUỐC

1. Thành lập

Tên gọi “Liên hợp quốc” đã được Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đặt và được sử dụng lần đầu tiên trong “Tuyên ngôn của Liên hợp quốc” vào ngày 1/1/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít.

Với ý định chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh – Anh, Mỹ và Liên Xô – đã tiến hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng tại Tê-hê-ran (tháng 11/1943) và I-an-ta (tháng 2/1945). Nội dung trao đổi chính giữa Sớc-xin, Xta-lin và Ru-dơ-ven bao gồm số phận châu Âu và tương lai của Liên hợp quốc. Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở thoả thuận tại Hội nghị I-an-ta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham dự Hội nghị Xan Phran-xít-xcô tháng 4/1945 và dự thảo Hiến chương Liên hợp quốc. Trên cơ sở Hiến chương, Tổ chức Liên hợp quốc đã chính thức được thành lập với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập. Sự ra đời của Liên hợp quốc đã chấm dứt hoàn toàn cơ chế cân bằng quyền lực giữa các cường quốc châu Âu dựa trên cơ sở của Hội nghị Viên năm 1815. Cân bằng quyền lực trên cơ sở Liên hợp quốc là thế cân bằng linh hoạt dựa trên tương tác trong từng vấn đề giữa ba cạnh: hoà hợp quyền lực giữa 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an (còn gọi là P5), tập hợp các nước phương Tây/phát triển, tập hợp các nước Á-Phi-Mỹ La-tinh/đang phát triển, trong đó tiếng nói của các nước P5 có trọng lượng đặc biệt.

2. Tôn chỉ mục đích

Theo Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia sáng lập đã quyết tâm xây dựng Liên hợp quốc thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với mục tiêu hàng đầu là bảo đảm một nền hoà bình và trật tự thế giới bền vững. Theo Điều 1 của Hiến chương, Liên hợp quốc được thành lập nhằm 4 mục tiêu: (1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế; (2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết; (3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo; (4) Xây dựng Liên hợp quốc làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu chung.

Để bảo đảm Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế thực sự phục vụ mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định các nguyên tắc hoạt động của Tổ chức Liên hợp quốc, các nguyên tắc chủ đạo gồm: (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; (2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước; (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; (6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.

Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của Liên hợp quốc mang tính bao quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Hoạt động của Liên hợp quốc trong gần 60 năm qua cho thấy trọng tâm chính của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát triển của các quốc gia thành viên.

Đặc điểm bao trùm của Liên hợp quốc là tổ chức này không phải là một nhà nước siêu quốc gia. Liên hợp quốc là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có những hoạt động thực chất và đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và điều tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia. Theo Điều 2 mục 7 của Hiến chương, Liên hợp quốc không được can thiệp vào các vấn đề thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia tham gia Liên hợp quốc theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này được phản ánh triệt để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và nghị quyết tại Đại hội đồng Liên hợp quốc (các quốc gia lớn nhỏ đều có một phiếu).

Một đặc điểm nổi bật khác của Liên hợp quốc là tổ chức này phản ánh sự dàn xếp và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc – cơ quan chấp hành có thực quyền nhất của Liên hợp quốc và đảm nhiệm trách nhiệm hàng đầu của Liên hợp quốc là duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Chỉ các quyết định của HĐBA mới có tính cưỡng chế thực hiện. Các nghị quyết tại các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc như Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế-Xã hội, Hội đồng Quản thác, và cả Toà án Quốc tế chỉ có tính khuyến nghị, đạo lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu hút sự tham gia của cho các cường quốc, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là cơ quan duy nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết, quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng Bảo an tập trung vào hai lĩnh vực hoạt động chính là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các biện pháp cưỡng chế.

Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị quốc tế trong gần 60 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói chung. Tuy nhiên, sự ra đời của Liên hợp quốc và bản thân Hiến chương Liên hợp quốc tất nhiên chưa đủ để bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn và triệt để giữa các quốc gia lớn nhỏ. Sự đóng góp của Liên hợp quốc đối với hoà bình an ninh quốc tế trong gần 60 năm qua là rất đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, Liên hợp quốc không thể hiện được vai trò của mình hoặc có thể nói Liên hợp quốc chưa làm tròn sứ mệnh của mình. Các siêu cường vẫn có vai trò lớn và nhiều khi giữ vai trò quyết định trong quá trình ra quyết định của Liên hợp quốc, đặc biệt là cơ cấu và cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an, Hiến chương Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc.

II. CƠ CẤU VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA LIÊN HỢP QUỐC

Liên hợp quốc gồm 6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế-Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban Thư ký.

1. Đại hội đồng Liên hợp quốc

Các qui định của Hiến chương liên quan đến Đại hội đồng được đề cập trong chương IV (từ Điều 9 đến 22), đã xác định thành phần, chức năng quyền hạn, bầu cử và thủ tục. Những qui định khác liên quan đến Đại hội đồng còn được nêu ở một số điều khoản khác.

1.1. Thành viên

Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của Liên hợp quốc. Từ 51 thành viên ban đầu, số thành viên LHQ cho đến giữa 2004 là 191. Khác với Hội đồng Bảo an, các thành viên Đại hội đồng đều là các thành viên bình đẳng, không phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu bầu.

Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi bầu vào các cơ quan cơ chế Liên hợp quốc. Hiện nay có 5 nhóm khu vực: châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, phương Tây và các nước khác.

1.2. Chức năng quyền hạn

1.2.1. Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ quân bị và các qui định về quân bị;

1.2.2. Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế, trừ trường hợp tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại Hội đồng Bảo an, và đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề đó;

1.2.3. Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến chương có tác động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc Liên hợp quốc;

1.2.4. Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế, phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục và y tế;

1.2.5. Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm phương hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;

1.2.6. Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cơ quan khác thuộc Liên hợp quốc;

1.2.7. Xem xét, thông qua ngân sách Liên hợp quốc và phân bổ đóng góp của các nước thành viên;

1.2.8. Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các thành viên Hội đồng Kinh tế – Xã hội , các thành viên được bầu vào Hội đồng Quản thác, cùng Hội đồng Bảo an bầu các thẩm phán Toà án quốc tế, và bầu Tổng thư ký Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 5 năm) theo khuyến nghị của Hội đồng Bảo an.

1.3. Các khoá họp và Cơ cấu:

1.3.1 Các khoá họp: Có các loại là khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt thường kỳ và khoá họp đặc biệt khẩn cấp của Đại hội đồng Liên hợp quốc.

* Khoá họp thường kỳ: Theo Nghị quyết 57/301 (2002), Đại hội đồng quyết định khoá họp thường kỳ hàng năm của Đại hội đồng sẽ bắt đầu vào ngày thứ 3 của tuần thứ 3 của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc. Nghị quyết cũng quy định buổi thảo luận chung của Đại hội đồng sẽ được tiến hành vào ngày thứ 3 sau khi khai mạc khoá họp thường kỳ và sẽ kéo dài liên tục trong 9 ngày. Mỗi khoá họp có một Chủ tịch chủ trì, do các nhóm khu vực luân phiên đề cử. Sau tuần đầu thống nhất chương trình nghị sự, Đại hội đồng sẽ tiến hành thảo thuận chung của các trưởng đoàn.

* Khoá đặc biệt thường kỳ: Do Tổng thư ký Liên hợp quốc triệu tập, theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an hoặc đa số các nước thành viên Liên hợp quốc. Khoá họp đặc biệt thường kỳ sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu trừ khi Đại hội đồng đã ấn định ngày tổ chức khoá họp đặc biệt từ trước. Chủ đề của các khoá họp bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội. Từ năm 1990 trở lại đây, các khoá họp đặc biệt thường kỳ của Đại hội đồng chủ yếu xoay quanh các vấn đề như: hợp tác kinh tế quốc tế, ma tuý, dân số, môi trường, bình đẳng giới, HIV/AIDS. Điều này cho thấy rõ xu thế của của Liên hợp quốc sau chiến tranh lạnh là tập trung bàn về vấn đề phát triển.

* Khoá họp đặc biệt khẩn cấp: Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu của Hội đồng Bảo an, hoặc yêu cầu hoặc thông báo của đa số các nước thành viên Liên hợp quốc. Khi muốn yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, Hội đồng Bảo an phải có một quyết định chính thức về vấn đề này được 9 thành viên Hội đồng Bảo an bỏ phiếu ủng hộ. Nếu đa số các nước bỏ phiếu thuận trong vòng 30 ngày thì một khoá họp đặc biệt sẽ được triệu tập.

* Kết quả của các khoá họp thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định được thông qua (các hình thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần thủ tục hoạt động). Các nghị quyết và quyết định này không có giá trị ràng buộc pháp lý mà chỉ có giá trị khuyến nghị và đạo lý phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của đông đảo các nước thành viên Liên hợp quốc.

1.3.2. Cơ cấu: Có 6 Uỷ ban chính:

+ Uỷ ban 1: Giải trừ quân bị và An ninh quốc tế

+ Uỷ ban 2: Kinh tế – Tài chính

+ Uỷ ban 3: Văn hoá – Xã hội – Nhân đạo

+ Uỷ ban 4: Chính trị đặc biệt và Phi thực dân hoá

+ Uỷ ban 5: Hành chính – Ngân sách Liên hợp quốc

+ Uỷ ban 6: Luật pháp quốc tế

Ngoài ra còn có các Uỷ ban sau được thành lập theo các nguyên tắc thủ tục của Đại hội đồng:

* Các Uỷ ban thủ tục;

* Các Uỷ ban thường trực;

* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ.

* Các Uỷ ban thủ tục

+ Uỷ ban chung

Uỷ ban này xem xét chương trình nghị sự tạm thời và danh sách các vấn đề bổ sung, xem xét các đề nghị về việc bổ sung các đề mục vào chương trình nghị sự, bố trí sắp xếp các đề mục vào các uỷ ban và trình báo cáo lên Đại hội đồng để được phê duyệt. Uỷ ban này giúp Chủ tịch Đại hội đồng vạch ra chương trình nghị sự cho các cuộc họp toàn thể, quyết định các đề mục trọng tâm, phối hợp công việc giữa các Uỷ ban, và nói chung làm các việc của Đại hội đồng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch. Uỷ ban cũng có thể đưa khuyến nghị cho Đại hội đồng về thời gian kết thúc của các khoá họp. Tuy nhiên, Uỷ ban không thể quyết định bất cứ vấn đề gì có tính chất chính trị.

+ Uỷ ban kiểm tra tư cách đại biểu

Uỷ ban này gồm 9 thành viên được bầu ngay lúc bắt đầu mỗi khóa họp theo đề nghị của Chủ tịch. Uỷ ban xem xét và báo cáo về các uỷ nhiệm thư của các đại biểu.

* Các Uỷ ban thường trực

Có 2 Uỷ ban thường trực được thành lập, theo qui định thủ tục của Đại hội đồng, để giải quyết các vấn đề tiếp theo trong và giữa các khoá họp thường kỳ.

+ Uỷ ban tư vấn về các vấn đề hành chính và ngân sách

Uỷ ban này có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo về ngân sách thường của Liên hợp quốc và ngân sách của việc gìn giữ hoà bình và các tài khoản của Liên hợp quốc, và ngân sách hành chính của các cơ quan chuyên môn. Uỷ ban này cũng tư vấn cho Đại hội đồng về các vấn đề hành chính và tài chính khác.

+ Uỷ ban đóng góp

Uỷ ban này tư vấn Đại hội đồng về mức đóng góp của các nước thành viên vào chi tiêu của Liên hợp quốc, định số tiền đóng góp của các nước thành viên mới, xem xét đề nghị của các nước thành viên về thay đổi mức đóng, xem xét việc áp dụng Điều 19 Hiến chương Liên hợp quốc trong các trường hợp chậm đóng niên liễm. Uỷ ban cũng được quyền khuyến nghị hoặc tư vấn về mức đóng góp cho một tổ chức chuyên môn nếu được tổ chức đó yêu cầu.

* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ

+ Các cơ quan liên chính phủ:

Uỷ ban hoà giải cho Palestine (1948); Uỷ ban khoa học của Liên hợp quốc về đánh giá ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử (UNSCEAR) (1955); Uỷ ban về sử dụng hoà bình khoảng không vũ trụ (thành lập năm 1959).

+ Các nhóm làm việc mở:

-Nhóm làm việc không chính thức về một chương trình nghị sự cho hoà bình, được thành lập tại Đại hội đồng khoá 47 và ngừng họp từ năm 1996.

-Nhóm làm việc về đại diện bình đẳng và tăng thành viên Hội đồng Bảo an, được thành lập theo Nghị quyết 48/26 (1993) của Đại hội đồng.

+ Các cơ quan tư vấn:

– Uỷ ban tư vấn về các chương trình viện trợ của Liên hợp quốc về giáo dục, truyền bá kiến thức về luật quốc tế (1965).

– Ban tư vấn về các vấn đề về giải trừ quân bị (1982).

+ Các cơ quan chuyên gia:

– Ban kiểm toán (1946)

– Uỷ ban luật quốc tế (ILC) (1947)

– Uỷ ban đầu tư (1947)

1.4. Thủ tục hoạt động của Đại hội đồng Liên hợp quốc

Chương trình nghị sự * Tại các khoá họp thường kỳ, thông thường, chương trình nghị sự của Đại hội đồng Liên hợp quốc gồm khoảng 150 đề mục, liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.

* Chương trình nghị sự tạm thời của khoá họp thường kỳ do Tổng thư ký soạn thảo và chuyển cho các nước thành viên chậm nhất là 60 ngày trước ngày khai mạc, bao gồm:

+ Báo cáo của Tổng thư ký;

+ Báo cáo của các cơ quan chính của Liên hợp quốc, các cơ quan thuộc Đại hội đồng Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn thuộc Liên hợp quốc;

+ Các đề mục do Đại hội đồng quyết định tại khoá họp trước;

* Bổ sung đề mục

Các nước thành viên, các cơ quan chính của Liên hợp quốc và Tổng thư ký được đưa đề mục bổ sung 30 ngày trước khi khai mạc khoá họp.

* Thông qua chương trình nghị sự

+ Chương trình nghị sự tạm thời và danh sách đề mục bổ sung cùng báo cáo của Uỷ ban chung (gồm Chủ tịch và các Phó chủ tịch Đại hội đồng) được chuyển cho Đại hội đồng thông qua khi khai mạc.

+ Muốn đưa một đề mục phải kèm theo một bản giải thích hoặc dự thảo nghị quyết.

+ Việc sửa đổi hoặc gạt bỏ một đề mục phải do Đại hội đồng thông qua bằng bỏ phiếu với số phiếu quá bán của những nước có mặt và tham gia bỏ phiếu.

Đoàn tham gia

* Mỗi nước thành viên gồm 5 đại biểu chính thức, 5 đại biểu dự khuyết và không hạn chế số lượng cố vấn.

* Đại biểu dự khuyết có thể trở thành đại biểu chính thức theo bổ nhiệm của trưởng đoàn.

* Uỷ nhiệm thư và danh sách thành viên phải được người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ hoặc Bộ trưởng Ngoại giao cấp và gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc một tuần trước ngày khai mạc.

Các hình thức thông qua văn kiện

* Tại các Uỷ ban, các nghị quyết được thông qua bằng đa số thường hoặc thông qua không cần bỏ phiếu.

* Các quyết định về các vấn đề quan trọng tại Đại hội đồng Liên hợp quốc được thông qua bằng đa số áp đảo (2/3) của các thành viên có mặt và tham gia bỏ phiếu. * Các vấn đề khác được thông qua bằng đa số thường.

* Khi có nhất trí cao, các nghị quyết có thể được thông qua không cần bỏ phiếu.

Tại Đại hội đồng Liên hợp quốc có các hình thức bỏ phiếu: kín (bầu cử), công khai, ghi tên, gọi tên.

Cơ chế lãnh đạo

* Bầu Chủ tịch, các phó Chủ tịch: Đại hội đồng bầu 1 Chủ tịch và 21 Phó Chủ tịch cho từng khoá họp.

* Chủ tịch có thể cử một phó Chủ tịch làm Quyền chủ tịch, có quyền hạn và nghĩa vụ như Chủ tịch.

* Chủ tịch tuyên bố khai mạc và kết thúc các phiên họp, hướng dẫn thảo luận, cho phép các đoàn phát biểu, nêu các vấn đề và tuyên bố các quyết định; quyết định về các kiến nghị thủ tục (points of order), toàn quyền kiểm soát và bảo đảm trật tự các phiên họp. Khuyến nghị Đại hội đồng về giới hạn thời gian, số lần đại biểu được phát biểu, giới hạn danh sách đại biểu phát biểu.

* Chủ tịch không tham gia bỏ phiếu.

Vai trò của Ban thư ký

Ban thư ký tiếp nhận dịch, in và phát các tài liệu, báo cáo, nghị quyết, biên bản, các bài phát biểu tại phiên họp và các công việc khác theo yêu cầu của Đại hội đồng.

Qui trình hội nghị

* Phát biểu

+ Chủ tịch có thể khai mạc phiên họp khi có ít nhất là 1/3 đại biểu.

+ Không đại biểu nào được phát biểu khi chưa được Chủ tịch cho phép. Chủ tịch cho phép các đoàn phát biểu theo thứ tự đăng ký và có quyền yêu cầu các đại biểu ngừng phát biểu khi vấn đề không liên quan tới chủ đề đang thảo luận.

+ Khi đã hết thời hạn đăng ký phát biểu, các đại biểu có thể được phát biểu bằng cách sử dụng quyền trả lời.

* Kiến nghị về thủ tục (points of order)

Trong quá trình thảo luận, đại biểu có thể sử dụng kiến nghị về thủ tục và Chủ tịch sẽ quyết định ngay về việc này. Đại biểu sử dụng kiến nghị về thủ tục không được phát biểu về nội dung vấn đề đang thảo luận.

* Thủ tục đưa ra hoặc rút các quyết định

+ Người đưa ra đề nghị (motion) có thể rút lại bất cứ lúc nào trước khi bắt đầu bỏ phiếu, trừ trường hợp đề nghị đã được bổ sung. Đề nghị đã rút có thể được đưa trở lại với bất cứ đại biểu nào.

+ Các đề nghị và các bổ sung phải được nộp cho Tổng thư ký bằng văn bản. Theo quy định chung, không thảo luận và bỏ phiếu các đề nghị khi văn bản chưa được Ban thư ký xem và gửi cho các đại biểu ngày hôm trước. Chủ tịch có thể cho phép thảo luận và thông qua các đề nghị và bổ sung mặc dù văn bản sao mới phát cho đại biểu trong ngày hôm đó.

+ Đề nghị đã thông qua hoặc bác bỏ có thể đem ra xét lại nếu 2/3 đại biểu có mặt đồng ý. Về đề nghị xét lại quyết định, chỉ 2 đại biểu trong số các nước chống đề nghị đó được quyền phát biểu.

Thủ tục kết nạp, khai trừ thành viên

* Đơn xin làm thành viên

Các quốc gia muốn gia nhập Liên hợp quốc phải nộp đơn cho Tổng thư ký, tuyên bố chấp nhận các nghĩa vụ ghi trong Hiến chương. Tổng thư ký sẽ sao và gửi đơn cho Đại hội đồng và các nước thành viên. Hội đồng Bảo an kiến nghị Đại hội đồng kết nạp. Đại hội đồng sẽ xem xét quốc gia đó có phải là quốc gia yêu chuộng hoà bình và có khả năng sẵn sàng thực hiện các nghĩa vụ qui định trong Hiến chương hay không, và quyết định bằng bỏ phiếu đa số áp đảo (2/3).

* Nước thành viên hiện đang là đối tượng bị Hội đồng Bảo an áp dụng các biện pháp phòng ngừa hoặc cưỡng chế sẽ bị treo quyền thành viên tại Đại hội đồng theo khuyến nghị của Hội đồng Bảo an. Hội đồng Bảo an có thể khôi phục quyền thành viên cho nước bị tước quyền thành viên trong trường hợp này.

* Nước thành viên liên tục vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương có thể bị Đại hội đồng khai trừ khỏi Liên hợp quốc theo khuyến nghị của Hội đồng Bảo an.

* Hiến chương Liên hợp quốc không qui định về việc nước thành viên rút ra khỏi Liên hợp quốc, thực tế chưa xảy ra trường hợp nào.

2. Hội đồng Bảo an

Theo Điều 24 của Hiến chương Liên hợp quốc, các nước thành viên Liên hợp quốc trao cho Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế. Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hoà bình các tranh chấp, xung đột và khi cần thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược.

Các quy định của Hiến chương liên quan đến HĐBA nằm trong các chương V, VI, VII, VIII và XII.

2.1. Thành viên

Hội đồng Bảo an gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước uỷ viên thường trực là: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không thường trực do ĐHĐ LHQ bầu ra với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia công bằng về mặt địa lý và có tính tới sự đóng góp của những nước này cho tôn chỉ và mục đích của LHQ và không được bầu lại nhiệm kỳ kế ngay sau khi mãn nhiệm.

10 nước thành viên không thường trực được bầu theo sự phân bổ khu vực địa lý như sau: 5 nước thuộc châu Phi và châu Á; 1 nước thuộc Đông Âu; 2 nước thuộc vùng Mỹ Latinh và Caribê; 2 nước thuộc Tây Âu và các nước khác.

2.2. Chức năng, quyền hạn

Là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, Hội đông Bảo an được thành lập nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Hội đồng Bảo an là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có quyền quyết định đánh giá thực tại của các mối đe doạ đối với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành động xâm lược, và sẽ khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp cần được tiến hành phù hợp với các Điều 41 và 42, để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Các quyết định và nghị quyết của Hội đồng Bảo an, theo chương VII Hiến chương, khi đã được thông qua đều mang tính chất ràng buộc và tất cả các thành viên của Liên hợp quốc đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành.

Hội đồng Bảo an có thể tiến hành điều tra bất cứ một tranh chấp nào hoặc bất cứ một tình thế nào có thể dẫn tới những xung đột quốc tế hoặc đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các phương thức cũng như nội dung cụ thể để giải quyết những xung đột đó. Theo Hiến chương, tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc phải cam kết cung ứng cho Hội đồng Bảo an, căn cứ theo những thoả thuận đặc biệt thông qua thương lượng đối với những đề xuất của Hội đồng Bảo an, những lực lượng vũ trang, những trợ giúp và các phương tiện cần thiết khác để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.

2.3. Cơ cấu

Hội đồng Bảo an có các uỷ ban và cơ quan phụ trợ sau:

2.3.1. Các Uỷ ban thường trực: gồm Uỷ ban chuyên gia về các vấn đề thủ tục, Uỷ ban về các cuộc họp của Hội đồng Bảo an không diễn ra tại trụ sở Liên hợp quốc và Uỷ ban về việc kết nạp thành viên mới. Các Uỷ ban này đều có đại diện của các nước thành viên Hội đồng Bảo an.

2.3.2. Ban Tham mưu quân sự: bao gồm các Tổng chỉ huy quân đội (Chiefs of staff) của tất cả các nước thành viên hoăc đại diện của họ. Chức năng nhiệm vụ của Ban là tư vấn cho Hội đồng về tất cả các vấn đề liên quan đến các yêu cầu quân sự để bảo vệ và duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, việc sử dụng và chỉ huy các lực lượng đặt dưới sự chỉ đạo của Ban, kể cả các qui định về vũ trang, và giải trừ quân bị nếu có thể.

2.3.3. Uỷ ban chống khủng bố: Uỷ ban này được thành lập theo Nghị quyết 1373 (2001) về một số biện pháp chống lại các mối đe doạ đối với hoà bình và an ninh quốc tế của các hành động khủng bố, nhằm giám sát việc thực hiện nghị quyết này. Các nước thành viên Liên hợp quốc phải trình bản báo cáo về các bước tiến hành để thực hiện Nghị quyết 1373 lên Uỷ ban, lần đầu tiên trong vòng 90 ngày và các lần sau theo thời gian biểu của Uỷ ban. Uỷ ban gồm tất cả 15 thành viên của Hội đồng Bảo an. Uỷ ban thành lập 3 tiểu ban, mỗi tiểu ban do một Phó Chủ tịch Uỷ ban làm chủ tịch, để xem xét sơ bộ bản báo cáo của các nước thành viên.

2.3.4. Các Uỷ ban cấm vận: hiện nay có 7 Uỷ ban cấm vận là: Uỷ ban Nghị quyết 661 của Hội đồng Bảo an về Irắc, Uỷ ban Nghị quyết 748 về Libi, Uỷ ban Nghị quyết 751 về Somali, Uỷ ban Nghị quyết 918 về Ruanđa, Uỷ ban Nghị quyết 985 về Liberia, Uỷ ban Nghị quyết 1132 về Xiêra Lêôn, Uỷ ban Nghị quyết 1267 về Ápghanixtan.

2.3.5. Các hoạt động và lực lượng gìn giữ hoà bình: gồm Tổ chức giám sát ngừng bắn ở Trung Đông (UNTSO) (1948), Nhóm quan sát viên quân sự ở Ấn Độ và Pakistan (UNMOGIP) (1949), Lực lượng ở Síp (UNFICYP) (1964), Lực lượng quan sát viên không can dự (UNDOF) (1974), Lực lượng lâm thời ở Libăng (UNIFIL) (1978), Phái đoàn quan sát Irắc-Côét (UNIKOM) (1991)…

2.3.6. Các lực lượng chính trị và kiến tạo hoà bình: gồm Văn phòng chính trị ở Bougainville (UNPOB) (1998), Văn phòng kiến tạo hoà bình ở Cộng hoà Trung Phi (BONUCA) (1999), Lực lượng trợ giúp ở Ápghanixtan (UNAMA) (2002), Văn phòng đại diện đặc biệt của Tổng thư ký Liên hợp quốc về vấn đề Irắc (2003)…

2.3.7. Các Uỷ ban khác: gồm Uỷ ban đền bù Liên hợp quốc (UNCC) (1991), Uỷ ban giám sát, kiểm tra và thanh tra (UNMOVIC) (1999).

2.3.8. Các toà án quốc tế:

* Toà án tội phạm quốc tế Ruanđa được thành lập năm 1994 theo Nghị quyết 955 của Hội đồng Bảo an, theo chương VII của Hiến chương để xử các cá nhân phạm tội diệt chủng và các tội ác chống loài người trên lãnh thổ Ruanđa và lãnh thổ các nước láng giềng trong năm 1994.

* Toà án tội phạm quốc tế về Nam Tư cũ thành lập năm 1993 theo Nghị quyết 808 của Hội đồng Bảo an để xét xử các cá nhân chịu trách nhiệm cho các vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế gây ra trên lãnh thổ Nam Tư cũ từ 1991.

2.4. Thủ tục hoạt động của Hội đồng Bảo an

Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an phải được tổ chức một cách phù hợp để có thể hoạt động thường xuyên và liên tục nhằm ứng phó với các tình huống liên quan đến hoà bình và an ninh quốc tế có thể đặt ra ở bất cứ thời điểm nào.

* Các phiên họp: Các hình thức họp của Hội đồng Bảo an bao gồm họp chính thức, họp kín và trao đổi không chính thức. Hội đồng Bảo an có thể triệu tập phiên họp bất thường (periodic meetings) theo yêu cầu của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc hoặc của Tổng thư ký Liên hợp quốc khi có những xung đột hoặc những tình huống có khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế. Hội đồng Bảo an còn tiến hành các cuộc họp trên cơ sở thường xuyên (continuous basis) nhằm có thể ứng phó được một cách nhanh chóng những biến chuyển của tình hình và để kiểm phối các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc trên cơ sở các báo cáo của Tổng thư ký Liên hợp quốc.

* Mỗi uỷ viên Hội đồng Bảo an phải luôn có một đại diện tại Trụ sở Liên hợp quốc. Chức Chủ tịch Hội đồng Bảo an được luân phiên hàng tháng giữa các nước uỷ viên theo thứ tự vần chữ cái của tiếng Anh.

* Tham gia các phiên họp: Ngoài các thành viên Hội đồng Bảo an, bất cứ thành viên nào của Liên hợp quốc, hay một quốc gia nào không phải thành viên Liên hợp quốc, nếu là đương sự trong vụ tranh chấp mà Hội đồng Bảo an đang xem xét, cũng được mời đến tham dự nhưng không có quyền biểu quyết trong những cuộc thảo luận liên quan đến vụ tranh chấp ấy.

* Kết quả phiên họp: Trong tất cả các phiên họp như vậy, Hội đồng Bảo an có thể thông qua những nghị quyết, khuyến nghị, hoặc đơn thuần chỉ là tuyên bố của chủ tịch. Hàng năm, Hội đồng Bảo an còn phải đệ trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc một bản báo cáo về công việc của mình để thành viên Hội đồng xem xét, thảo luận và đưa ra những khuyến nghị.

* Bỏ phiếu: Mỗi thành viên Hội đồng Bảo an có một phiếu. Các quyết định liên quan đến thủ tục được thông qua với số phiếu thuận của ít nhất là 9 trong số 15 thành viên bất kể là thường trực hay không thường trực. Các quyết định về các vấn đề thực chất chỉ được thông qua khi có ít nhất 9 phiếu thuận, trong đó theo Hiến chương phải gồm các phiếu tán thành (concurring vote) của tất cả các nước thành viên thường trực. Điều này có nghĩa là khi Hội đồng Bảo an thông qua các quyết định có liên quan đến việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, thì cần phải có được sự nhất trí của các nước uỷ viên thường trực, nếu một trong năm nước này bỏ phiếu chống, quyết định sẽ không được thông qua, dù có đạt được đủ 9 phiếu thuận. Đây được gọi là nguyên tắc nhất trí hay quyền phủ quyết của các nước uỷ viên thường trực. Trong thực tế áp dụng qui tắc này, việc một nước uỷ viên thường trực bỏ phiếu trắng, hoặc không tham gia bỏ phiếu, không bị coi là phủ quyết. Bất cứ quốc gia nào, dù là thành viên thường trực hay không thường trực, cũng không được phép tham gia bỏ phiếu về các quyết định có liên quan tới các biện pháp giải quyết tranh chấp mà quốc gia đó là một thành viên tham gia.

* Quyền phủ quyết (veto): Là việc một nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an có khả năng ngăn cản việc thông qua một nghị quyết không liên quan đến thủ tục bằng một phiếu chống của mình kể cả khi tất cả các nước thành viên khác, thường trực và không thường trực, bỏ phiếu tán thành. Thông thường, các nước uỷ viên Hội đồng Bảo an cố tìm cách dàn xếp trước để nghị quyết có thể được thông qua. Tuy nhiên, đã không ít lần, nhiều nước, cho dù biết trước dự thảo nghị quyết của mình sẽ bị phủ quyết nhưng vẫn đưa ra bỏ phiếu nhằm gây sức ép chính trị.

3. Hội đồng Kinh tế – Xã hội Liên hợp quốc

Hội đồng kinh tế xã hội Liên hợp quốc (Economic and Social Council – ECOSOC) là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc.

Theo Hiến chương LHQ, một trong những mục tiêu chính của Tổ chức này là: “Thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” (Chương I, điều 1, điểm 3). Cụ thể, LHQ sẽ thúc đẩy (Chương IX, điều 55, điểm a,b,c):

– Nâng cao mức sống, đầy đủ việc làm, điều kiện tiến bộ và phát triển kinh tế xã hội

– Giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, y tế và các vấn đề liên quan, và sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và

– Tôn trọng và thực hiện quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.

Trách nhiệm thực hiện những chức năng trên trước hết thuộc về Đại hội đồng LHQ. Theo điều 60 của Hiến chương LHQ, ECOSOC được đặt dưới quyền của Đại hội đồng và được Đại hội đồng giao trách nhiệm trực tiếp thực hiện các chức năng về kinh tế, xã hội của LHQ.

4. Hội đồng Quản thác

Theo Chương XII Hiến chương Liên hợp quốc, Hệ thống Quản thác với nhiệm vụ giám sát các vùng Lãnh thổ quản thác được đặt trong Hệ thống theo các thoả thuận riêng với quốc gia quản lý các vùng lãnh thổ này. Hệ thống này áp dụng với: (i) các vùng lãnh thổ nằm trong nhiệm vụ quản lý do Hội quốc liên đưa ra; (ii) các vùng lãnh thổ tách ra từ các quốc gia kẻ thù sau Chiến tranh thế giới thứ hai; các vùng lãnh thổ do các quốc gia có trách nhiệm quản lý được tự nguyện đặt trong Hệ thống. Mục tiêu căn bản của Hệ thống là thúc đẩy tiến bộ chính trị, kinh tế, xã hội tại các vùng lãnh thổ quản thác và sự phát triển của các vùng này hướng tới chính phủ tự quản và độc lập.

5. Tòa án Quốc tế

Nhiệm vụ trọng tâm của Liên hợp quốc là giải quyết các cuộc xung đột bằng biện pháp hoà bình phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc tế (Điều 1 của Hiến chương Liên hợp quốc). Điều 33 của Hiến chương cũng chỉ rõ, trong số các phương pháp giải quyết hoà bình có phương pháp sử dụng trọng tài và giải quyết của toà án (theo luật pháp).

Theo điều 13 của Hiến chương, một trong những chức năng của Đại hội đồng là ” thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ”. Chức năng này đã được Đại hội đồng và các cơ quan khác thực hiện thông qua việc soạn thảo, chuẩn bị rất nhiều công ước quốc tế. Trong vòng năm thập kỷ qua, Liên hợp quốc đã bảo trợ cho trên 456 thoả thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ lực của loài người. Liên hợp quốc cũng là người tiên phong quan tâm tới những vấn đề toàn cầu mới hiện nay như: môi trường, khoảng không vũ trụ, lao động di cư, buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố.

6. Ban Thư ký Liên hợp quốc

6.1. Khái quát

Ban thư ký Liên hợp quốc (gọi tắt là Ban thư ký) là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc.

Trụ sở chính của Ban thư ký đặt tại Niu Oóc, Mỹ. Ngoài ra có hai Văn phòng tại Giơnevơ và Viên.

Tổng thư ký hiện nay là Ngài Ban Ki Mun, quốc tịch Hà Quốc, nhậm chức từ ngày 1/1/2007.

6.2. Cơ cấu tổ chức

Theo Chương XV của Hiến chương Liên hợp quốc, Ban thư ký gồm có một Tổng thư ký và một số nhân viên tuỳ theo nhu cầu của tổ chức. Tổng thư ký do Đại hội đồng bổ nhiệm, theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Tổng thư ký là viên chức cao cấp nhất của Tổ chức Liên hợp quốc (Điều 97).

6.3. Chức năng, nhiệm vụ

* Tổng thư ký hoạt động với tư cách là người có cương vị cao nhất của Ban thư ký trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng Bảo an, của Hội đồng Kinh tế – Xã hội và của Hội đồng Quản thác. Tổng thư ký thực hiện các chức năng theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và các nhiệm vụ khác do các cơ quan này giao phó. Tổng thư ký trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm về hoạt động của Liên hợp quốc (Điều 98).

* Tổng thư ký có thẩm quyền lưu ý Hội đồng Bảo an về bất cứ vấn đề nào mà theo ông, có thể đe doạ việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế (Điều 99).

* Trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, Tổng thư ký và các nhân viên không được tìm kiếm hay chấp nhận những chỉ thị của bất cứ một chính phủ nào hoặc của một cơ quan quyền lực nào ngoài Liên hợp quốc. Tổng thư ký và các nhân viên không được hành động trái với địa vị viên chức quốc tế của họ và chỉ chịu trách nhiệm trước Liên hợp quốc (Điều 100, khoản 1).

* Tổng thư ký bổ nhiệm các nhân viên của mình theo những quy định do Đại hội đồng xác lập (Điều 101, khoản 1).

* Một số nhân viên thích hợp được bổ nhiệm để phục vụ thường trực Hội đồng Kinh tế – Xã hội, Hội đồng Quản thác và nếu cần, các cơ quan khác của Liên hợp quốc. Số nhân viên này thuộc biên chế cơ quan Tổng thư ký (Điều 101, khoản 2).

Trợ giúp Tổng thư ký gồm:

– Phó Tổng thư ký;

– Các trợ lý Tổng thư ký;

– Các vụ, phòng, ban do các quan chức cao cấp chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng thư ký:

+ Văn phòng Tổng thư ký;

+ Vụ các vấn đề của Đại hội đồng và phục vụ hội nghị;

+ Vụ các vấn đề chính trị;

+ Vụ giải trừ quân bị;

+ Vụ về các hoạt động gìn giũ hoà bình;

+ Văn phòng pháp lý;

+ Vụ kinh tế, xã hội;

+ Phòng về các vấn đề phối hợp và nhân đạo;

+ Vụ thông tin;

+ Vụ quản trị;

+ Phòng dịch vụ nội bộ.

– Các quan chức cao cấp khác:

+ Điều phối viên về an ninh Liên hợp quốc;

+ Giám đốc điều hành chương trình Irắc;

+ Điều phối viên về cải tổ Liên hợp quốc;

+ Điều phối viên về các hoạt động nhân đạo cho Irắc.

Ngoài ra Tổng thư ký còn cử các đặc phái viên, đại diện cho mình theo các nước, khu vực như: châu Phi, Ăngôla, Cămpuchia, Crôatia, Irắc, Trung Đông…

6.4. Chương trình cải tổ Ban thư ký

Tại khoá 51 Đại hội đồng Liên hợp quốc (16/6/1997), Tổng thư ký đã trình bày một chương trình cải tổ Liên hợp quốc trong đó có Ban thư ký.

Tại khoá họp 52 Đại hội đồng đã diễn ra những cuộc thảo luận sâu rộng về các khuyến nghị và các biện pháp cải tổ Liên hợp quốc của Tổng thư ký đề xuất trong báo cáo.

Theo báo cáo của Tổng thư ký Liên hợp quốc tại khoá 53 Đại hội đồng (1998), những việc chính sau về cải tổ Liên hợp quốc đã được thực hiện:

* Lập chức Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc;

* Ban thư ký đã được sắp xếp lại thông qua sáp nhập hoặc giải thể một số đơn vị: củng cố Vụ kinh tế – xã hội bằng cách sáp nhập 3 ban riêng trước đây; định hướng lại Vụ thông tin, đơn giản hoá hệ thống hỗ trợ kỹ thuật…;

* Giảm gần 1000 biên chế của Ban thư ký vào tháng 1/1998, biên chế hiện nay còn hơn 9000 nhân viên. Cắt giảm 123 triệu đôla ngân sách 1998-1999. Giảm 1/3 chi phí hành chính và chuyển số tiền đó sang các chương trình kinh tế, xã hội có ích cho các nước đang phát triển. Giảm công văn giấy tờ 25%;

* Xây dựng bộ tiêu chuẩn về hành vi cho các nhân viên Liên hợp quốc.

6.5. Các Tổng thư ký Liên hợp quốc từ khi tổ chức này được thành lập

* Trygve Lie, Na Uy, nhậm chức ngày 2/2/1946

* Dag Hammarskjold, Thuỵ Điển, nhậm chức ngày 10/4/1953

* U Thant, Mianma, nhậm chức ngày 3/11/1961

* Kurt Waldheim, Áo, nhậm chức ngày 22/12/1971

* Javier Perez De Cuillar, Pê-ru, nhậm chức ngày 15/12/1981

* Boutros Boutros Ghali, Ai Cập, nhậm chức ngày 1/1/1992

* Kofi Annan, Gana, nhậm chức ngày 1/1/1997

(* Ban Ki Mun, Hàn Quốc, nhận chức ngày 1/1/2007)

BVK (biên soạn theo nguồn Bộ Ngoại giao)