Đại diện của pháp nhân là gì? Quy định về đại diện của pháp nhân?

1. Đại diện của pháp nhân là gì?

Pháp luật có quy định cụ thể về pháp nhân tại điều 74 Bộ luật dân sự 2015. Tuy không quy định cụ thể về khái niệm, nhưng qua các điều kiện thì có thể đưa ra một khái niệm cơ bản của pháp nhân. Pháp nhân được hiểu đó là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật. Đây là một khái niệm trong luật học dùng để phân biệt với thể nhân (cá nhân) và các tổ chức khác và nếu một tổ chức có “tư cách pháp nhân” thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân mà luật đã quy định.

Theo đó có thể hiểu đại diện của pháp nhân được pháp luatajq uy định, có cac đặc điểm và tính chất cụ thể của việc đại diện đối cới các trường hợp khác nhau thì có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.

2. Quy định về đại diện của pháp nhân:

2.1. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân:

Theo quy định hiện hành tại Bộ luật dân sự 2015 thì đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định như sau:

– Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:

+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

Theo quy định của pháp luật đề ra thì một pháp nhân có thể có một người đại diện hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật dân sự 2015.

Theo đó có thể thấy pháp luật đã quy định cụ thể về các trường hợp đại diện theo pháp luật của pháp nhân và ngoài ra theo quy định tại quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 có dự liệu trường hợp pháp nhân có nhiều người đại diện theo pháp luật (khoản 2 Điều 137).

Bên cạnh đó tại Bộ luật dân sự 2015 có quy định mỗi người đại diện trong số những người đại diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo nội dung ủy quyền hoặc theo qui định của pháp luật (khoản 1 Điều 141) và phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình (khoản 4 Điều 141).

Như vậy có thể thấy bộ luật dân sự 2015 không dự liệu phạm vi đại diện của người đại diện hoặc các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có tính cách tổng quát, có nghĩa là, không xác định người đại diện hoặc các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải đại diện cho pháp nhân đối với bất kỳ và tất cả các công việc của pháp nhân, mà chỉ chú ý tới thẩm quyền đại diện của mỗi người đại diện trong số những người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và dành toàn bộ việc xác định phạm vi đại diện này cho văn bản trao quyền đại diện.

Theo đó chúng ta hoàn toàn có thể thấy một vấn đề rất đáng tiếc vì pháp nhân không thể hoạt động được hoặc không thể hoạt động đầy đủ theo mục đích và chức năng nếu người đại diện hay các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân không có thẩm quyền đại diện đối với bất kỳ và tất cả các công việc của pháp nhân bởi pháp nhân chỉ là con người giả tưởng. Bộ luật này cũng như Luật Doanh nghiệp năm 2020 không dự liệu việc nại ra hay lạm dụng việc có nhiều người đại diện theo pháp luật của pháp nhân mà thẩm quyền đại diện của từng người bị giới hạn để chống lại người thứ ba ngay tình. Bộ luật Dân sự năm 2015 có khuynh hướng buộc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đã giao kết hợp đồng vượt quá phạm vi của sự ủy quyền phải thực hiện phần nghĩa vụ vượt quá theo quy định của pháp luật.

2.2. Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân:

Khoản 1 điều 142 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”.

Theo đó có thể thấy người được ủy quyền là người đại diện cho người ủy quyền theo thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy cho nên ngoài các điểm đặc thù của chế định đại diện thì người được ủy quyền còn chịu sự ràng buộc theo các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền.

Ngoài ra theo quy định tại Khoản 1, Điều 138, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Dựa vào quy định chúng tôi đưa ra có thể thấy Bộ luật dân sự năm 2015 đã ghi nhận pháp nhân được ủy quyền cho cá nhân hay pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật.

3. Phân biệt đại diện thao ủy quyền và đại diện theo pháp luật:

Tiêu chí Đại diện theo pháp luật

(Điều 136,137Bộ Luật dân sự 2015)

Đại diện theo ủy quyền

( Điều 138 Bộ Luật dân sự 2015)

Khái niệm Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định bao gồm: Đại diện theo pháp luật của cá nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Đại diện theo ủy quyền là đại diện được thực hiện theo sự ủy quyền của người được đại diện và người đại diện. Căn cứ xác lập quyền đại diện Căn cứ xác lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. Căn cứ xác lập trong trường hợp này là quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện. Các trường hợp đại diện – Người đại diện theo pháp luật của cá nhân bao gồm:+ Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

+ Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định;

+ Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện theo quy định nêu trên;

+ Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. – Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:

+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

– Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

– Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

Năng lực hành vi dân sự của người đại diện

Pháp luật quy định người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Pháp luật quy định người đại diện không nhất thiết phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (Khoản 3 Điều 138 BLDS 2015). Phạm vi đại diện pháp luật quy định về phạm vi đại diện theo pháp luật rộng hơn phạm vi đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật có quyền thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện được pháp luật thừa nhận, không làm ảnh hưởng tới lợi ích của người được đại diện trừ trường hợp pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quy định khác. Phạm vi đại diện đối với ủy quyền đó là người đại diện chỉ được xác lập các giao dịch trong phạm vi được uỷ quyền (bao gồm nội dung giao dịch và thời hạn được ủy quyền). Thời hạn đại diện

Thời hạn theo quy định đó là theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. Thời hạn theo quy định đó là đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền. Chấm dứt đại diện Pháp luật quy định về chấm dứt đại diện khi: + Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục+ Người được đại diện là cá nhân chết;+ Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;

+ Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan.

Pháp luật quy định chấm dứt đại diện theo ủy quyền khi

+ Theo thỏa thuận;

+ Thời hạn ủy quyền đã hết;

+ Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;

+ Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;

+ Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;

+ Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của BLDS 2015;

+ Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.

Cơ sở pháp lý sử dụng trong bài viết:

Bộ luật dân sự 2015