Người lao động chưa thành niên là gì?

Người lao động chưa thành niên là nhóm lao động đặc biệt, không chỉ về độ tuổi mà còn về các vấn đề sức khỏe (cả thể chất lẫn tinh thần). Pháp luật lao động của Việt Nam hiện nay có những quy định gì về người lao động chưa thành niên? GỌI NGAY tới số điện thoại 0908308123 để được Luật sư tư vấn MIỄN PHÍ một cách nhanh chóng, đầy đủ nhất và cung cấp dịch vụ luật sư lao động UY TÍN – BẢO MẬT hoặc tìm hiểu các thông tin pháp lý cần thiết thông qua nội dung bài viết dưới đây

nguoi lao dong chua thanh nien la nguoi lao dong

Căn cứ pháp lý

– Bộ luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20/11/2019 ( Bộ luật lao động 2019)

– Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động chưa thành niên.

Khái niệm người lao động chưa thành niên

Theo Khoản 1 Điều 143 Bộ luật lao động năm 2019:

Lao động chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi.

Quy định này phù hợp với các quy định của tại Khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.” Cũng theo Bộ luật dân sự năm 2015 tại khoản 1 điều 20, người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Vậy, lao động chưa thành niên là lao động chưa trưởng thành, chưa có đủ khả năng về thể chất và năng lực trí tuệ ổn định như người trưởng thành. Trong đó, những người từ đủ 6 tuổi đến đủ 18 tuổi được coi là những người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ. Tuy nhiên, Bộ luật lao động năm 2019 không có quy định về độ tuổi thấp để tham gia lao động cho người chưa thành niên, tức là, kể cả người dưới 6 tuổi cũng có thể trở thành người lao động chưa thành niên.

Lao động chưa thành niên được chia ra thành 3 nhóm:

Nhóm 1: Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi

Nhóm 2: Người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi

Nhóm 3: Người dưới 13 tuổi

Từng nhóm lao động ở các độ tuổi khác nhau thì mức độ công việc các lao động chưa thành niên được tham gia là khác nhau.

Đặc điểm của người lao động chưa thành niên

– Thứ nhất, dấu hiệu dễ nhận diện nhất là độ tuổi của lao động chưa đủ 18 tuổi. Đây là độ tuổi đang hình thành nhân cách, chưa phát triển toàn diện về thể lực, trí lực đáp ứng yêu cầu về nhận thức và điều khiển hành vi cũng như khả năng tham gia tất cả các quan hệ lao động. Trong sự phát triển tự nhiên, nhóm đối tượng này sẽ trở thành những lao động thành niên trong tương lai, những nhân tố lao động chính trong xã hội, vì vậy, ngoài sự đảm bảo quyền lao động trong giới hạn cần thiết, sự điều chỉnh của pháp luật còn nhằm mục tiêu phát triển, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lao động cho đối tượng này.

– Thứ hai, về sức khoẻ, thể trạng của người chưa thành niên tiếp cận gần tương đương với người đã thành niên. Tuy nhiên, tuỳ từng độ tuổi khác nhau, lao động chưa thành niên có thể lực (biểu hiện bằng chiều cao, cân nặng, sức bền, sức dai) ở mức độ nhất định khi so sánh với lao động thành niên. Họ không thể đáp ứng được yêu cầu của mọi công việc như lao động thành niên nên nếu làm việc quá sức hoặc các công việc có tính nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm sẽ có thể tác động tiêu cực đến quá trình phát triển thể chất của họ, làm hạn chế khả năng phát triển của người dưới 18 tuổi.

– Thứ ba, về trí lực, lao động chưa thành niên chưa tích lũy đầy đủ về nhận thức nên còn có những hạn chế trong nhận diện và điều khiển hành vi. Đồng thời, đây cũng là độ tuổi thường có những biểu hiện về mặt tâm lí khá phức tạp, chưa có sự định hình về nhân cách, dễ thay đổi và chịu sự an hưởng, tác động của môi trường sống và làm việc. Đối tượng này còn phải đảm bảo yêu cầu vừa lao động, vừa học tập tích lũy kiến thức, hoàn thiện nhân cách. Việc bố trí thời gian lao động cần đặt trong mối tương quan đảm bảo quyền học tập. Bên cạnh đó, việc sử dụng lao động làm công việc với môi trường thiếu lành mạnh cùng các ngành nghề nguy hiểm, độc hại sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển trí lực và nhân cách của họ.

Các công việc được và không được sử dụng người lao động chưa thành niên

Đối với người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi

Người lao động trong nhóm này được thực hiện tất cả các công việc bình thường trừ các công việc theo khoản 1 điều 147 và các công việc tại nơi làm việc bị cấm tại Khoản 2 Điều 147 Bộ luật lao động năm 2019:

Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên;

– Sản xuất, kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần hoặc chất gây nghiện khác;

– Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ;

– Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc;

– Phá dỡ các công trình xây dựng;

– Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại;

– Lặn biển, đánh bắt thủy, hải sản xa bờ;

– Công việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên. Các công việc này được quy định cụ thể tại phụ lục III của Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ngày 12/11/2020.

Các công việc bị cấm đối với người lao động từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tại các địa điểm:

– Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm

– Công trường xây dựng

– Cơ sở giết mổ gia súc

– Sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở tắm hơi, cơ sở xoa bóp; điểm kinh doanh xổ số, dịch vụ trò chơi điện tử

– Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên.

121

Đối với người lao động từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi

Người lao động trong nhóm tuổi này chỉ được thực hiện các công việc nhẹ được nêu trong phụ lục II tại Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong đó điển hình có các công việc như:

– Biểu diễn nghệ thuật.

– Vận động viên thể thao.

– Lập trình phần mềm.

– Một số nghề truyền thống: chấm men gốm; cưa vỏ trai;…

– Một số nghề thủ công mỹ nghệ: thêu ren; mộc mỹ nghệ; làm lược sừng; làm tranh dân gian (tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống…);…

– Đan lát, làm các đồ gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên như: mây, tre, nứa, dừa, chuối, bèo lục bình, đay, cói, quế, guột, đót, lá nón.

– Gói nem, gói kẹo, gói bánh (trừ việc vận hành hoặc sử dụng các máy, thiết bị, dụng cụ đóng gói).

– Nuôi tằm.

– Làm cỏ vườn rau sạch; thu hoạch rau, củ, quả sạch theo mùa.

– Chăn thả gia súc tại nông trại.

– Phụ gỡ lưới cá, đan lưới cá, phơi khô thủy sản.

– Cắt chỉ, đơm nút, thùa khuyết, đóng gói vào hộp các sản phẩm dệt thủ công.

Đồng thời, nơi làm việc của nhóm người lao động này cũng không được là: Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; Sản xuất, kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần hoặc chất gây nghiện khác; Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ; Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc; và những nơi làm việc thuộc phụ lục IV Thông tư số số 09/2020/TT-BLĐTBXH.

Đối với người lao động dưới 13 tuổi

Nhóm người lao động này cũng chỉ được tham gia vào những công việc nhất định theo quy định tại khoản 3 điều 145 Bộ luật lao động năm 2019. Đó là các công việc nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi.

Có thể nói, các công việc mà người lao động chưa thành niên được phép thực hiện phải là những công việc đảm bảo cho sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Các công việc này không phải là các công việc độc hại, nguy hiểm bởi sức khỏe của người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em, không chịu nổi mức độc hại và nguy hiểm từ mức vừa đến cao. Đồng thời, các công việc này cũng phải đảm bảo sự phát triển về trí tuệ, tinh thần của người lao động chưa thành niên do đây là nhóm người đặc biệt, dễ chịu tổn thương, đặc biệt tổn thương về tinh thần và ảnh hưởng xấu đến trí tuệ rất khó để khắc phục khi trưởng thành.

Giao kết hợp đồng với người lao động chưa thành niên

Các yêu cầu về vấn đề giao kết hợp đồng lao động với người lao động chưa thành niên tập trung chủ yếu đối với nhóm người lao động dưới 15 tuổi, bởi nhóm người này theo Khoản 3 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 thì không thể tự mình xác lập giao dịch dân sự mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Trong khi đó theo Khoản 4 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015, người từ đủ 15 tuổi có thể tự mình thực hiện hầu hết các giao dịch dân sự, trong đó có giao kết hợp đồng lao động.

Về chủ thể:

Người sử dụng lao động giao kết hợp đồng lao động với người lao động chưa đủ 15 tuổi phải đạt đủ các điều kiện cần thiết được quy định tại Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:

– Có phiếu lý lịch tư pháp được cấp không quá 06 tháng kể từ ngày cấp đến ngày giao kết hợp đồng lao động, trong đó không có án tích về hành vi xâm hại trẻ em

– Có Bản cam kết chưa từng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại trẻ em theo Mẫu số 02 tại Phụ lục I ban hành kèm Thông tư số số 09/2020/TT-BLĐTBXH.

Các yêu cầu này là cần thiết vì người sử dụng lao động là người sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý, điều hành người lao động chưa thành niên, họ chịu trách nhiệm cho sự an toàn và hợp lý của công việc mà người lao động chưa thành niên thực hiện. Nhóm người lao động chưa thành niên cũng là một nhóm người dễ chịu tổn thương, dễ bị bạo hành cả về thân thể lẫn tinh thần, vì vậy, người sử dụng lao động, với tư cách là người trưởng thành, phải chứng minh được bản thân sẽ không phải là người gây ra các tổn thương không đáng có cho người lao động chưa thành niên.

129

Về nội dung:

Theo Khoản 2 Điều 4 Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, nội dung hợp đồng lao động với người lao động chưa đủ 15 tuổi bắt buộc phải có đầy đủ các vấn đề sau:

– Họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; nơi cư trú; số điện thoại (nếu có); số thẻ căn cước công dân hoặc chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người đại diện theo pháp luật của người chưa đủ 15 tuổi;

– Chỗ ở đối với người chưa đủ 15 tuổi làm việc xa gia đình;

– Việc bảo đảm điều kiện học tập.

Về sự đồng ý của người, cơ quan liên quan:

Theo Điểm b Khoản 4 Điều 18 Bộ luật lao động năm 2019, người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật thì mới được giao kết hợp đồng lao động. Theo Điểm a Khoản 1 điều 145 Bộ luật lao động năm 2019 và Khoản 3 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng giao kết với người lao động dưới 15 tuổi phải có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật của người đó, thể hiện qua chữ ký của người đại diện hợp pháp trên dạng văn bản của hợp đồng. Sự tham gia của người đại diện hợp pháp này rất quan trọng vì người dưới 15 tuổi chưa hoàn toàn ý thức được những hậu quả, hay kết quả từ hành vi pháp lý từ chính mình, những người này cần người đại diện theo pháp luật (cha, mẹ), những người có đầy đủ hiểu biết và tính toán lợi ích cho người lao động chưa thành niên đồng ý. Điều này có thể giảm thiểu những rủi ro khi người lao động chưa đủ thành niên giao kết hợp đồng.

Ngoài ra, khi giao kết hợp đồng lao động với người lao động chưa đủ 13 tuổi thì cần phải có văn bản đồng ý của hai cơ quan thuộc Bộ Lao động -Thương binh và xã hội được quy định tại Điều 5 Thông tư số số 09/2020/TT-BLĐTBXH.

Hình thức giao kết hợp đồng lao động:

Đối với người lao động từ đủ 15 tuổi trở lên, có thể lựa chọn một trong các hình thức hợp đồng: Văn bản, thông điệp dữ liệu, lời nói (theo điều 14 Bộ luật lao động năm 2019), bởi nhóm người lao động này đã được pháp luật cho phép tự mình thực hiện các giao dịch thông thường trong đó có giao kết hợp đồng lao động, cũng đủ khả năng suy nghĩ, cân nhắc đến các điều kiện, loại hợp đồng cũng như hình thức của hợp đồng có lợi cho mình nhất.

Đối với người lao động dưới 15 tuổi, theo khoản 1 điều 145 Bộ luật lao động năm 2019, phải giao kết hợp đồng bằng văn bản để thể hiện được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật và cơ quan có thẩm quyền.

Thời gian làm việc của người lao động chưa thành niên

Đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi:

Theo Khoản 2 Điều 146 Bộ luật lao động năm 2019:

Thời giờ làm việc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm trong một số nghề, công việc theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành.

Suy ra nếu người lao động thuộc nhóm này làm việc đủ 08 giờ trong 01 ngày thì trong một tuần chỉ làm việc 05 ngày, nếu không làm thêm giờ. Thời gian làm việc của nhóm từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tương đối gần với thời gian làm việc của người trưởng thành. Về thời gian làm thêm và làm việc vào buổi đêm, những công việc người lao động trong nhóm này được làm thêm hoặc làm việc vào ban đêm chủ yếu là các công việc nhẹ nhàng, được quy định tại phụ lục V Thông tư số số 09/2020/TT-BLĐTBXH.

Đối với người chưa đủ 15 tuổi:

Theo Khoản 1 Điều 146 Bộ luật lao động năm 2019:

Thời giờ làm việc của người chưa đủ 15 tuổi không được quá 04 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần; không được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm.

Theo đó, người lao động dưới 15 tuổi không được làm thêm giờ và làm việc vào ban đêm, bởi người lao động chưa đủ 15 tuổi đang trong thời gian phát triển về thể chất, làm việc quá sức hay làm việc vào ban đêm làm ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của người lao động chưa đủ 15 tuổi. Nếu một người lao động trong nhóm này làm việc đủ 04 giờ trong một ngày thì một tuần người này được làm việc 05 ngày.

Có thể nói, pháp luật lao động Việt Nam hiện nay quy định tương đối rõ ràng và chặt chẽ về lao động chưa thành niên. Điều này thể hiện sự quan tâm của nhà nước và người làm luật dành cho nhóm chủ thể dễ chịu tổn thương này.

Trên đây là nội dung tư vấn các vấn đề pháp lý cơ bản liên quan đến lao động chưa thành niên. Trường hợp có thắc măc, hãy LIÊN HỆ NGAY với Công ty Luật Hoàng Anh qua số điện thoại 0908308123 để được tư vấn trực tiếp và cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng bởi những Luật sư UY TÍN – CHẤT LƯỢNG.