Tích lũy tư bản – Tích lũy tư bản

Tích lũy tư bản

1. Bản chất của tích lũy tư bản

Để chỉ ra bản chất của tích lũy tư bản, cần nghiên cứu về tái sản xuất.

Trong thực tế nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, quá trình sản xuât liên tục được lặp đi lặp lại không ngừng. Quá trình sản xuất được lặp đi, lặp lại không ngừng được gọi là tái sản xuất.

Tái sản xuất có hai hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Trong trường hợp này, ứng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân.

Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn phải không ngừng lớn lên. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.

Bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bàn chủ nghĩa thông qua việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm dề tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang nhà xưởng, mua thêm nguyên vật liệu, trang bị thêm máy móc thiết bị… Nghĩa là, nhà tư bản không sử dụng hết giá thị thặng dư thu được cho tiêu dùng cá nhân mà biến nó thành tư bản phụ thêm. Cho nên, khi thị trường thuận lợi, nhà tư bản bán được hàng hóa, giá trị thặng dư vì thế sẽ ngày càng nhiều, nhà tư bản trở nên giàu có hơn.

Thực chất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống trị, mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.

2. Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích luỹ

Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng đã được xác định thì quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quy mô tích luỹ gồm:

Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động Tỷ suất giá trị thặnẹ dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy mô giá trị thặng dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích luỹ. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư, ngoài sử

dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đôi và sản xuât giá trị thặng dư tương đôi, nhà tư bản còn có thê sử dụng các biện pháp cắt xẻn tiền công, tăng ca tăng kíp, tăng cường độ lao đọng.

Thứ hai, năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động tăng làm cho giá trị tư liệu sinh hoạt giảm xuống, làm giảm giá trị sức lao động giúp cho nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn, góp phân tạo điêu kiện cho phép tăng quy mô tích luỹ.

Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc. Các gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng và lư bản tiêu dùng. Theo Các, máy móc được sừ dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá trị chỉ được tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kỳ như thế, máy móc vẫn hoạt động toàn bộ nhưng giá trị của bản thân nó đã giảm dần do tính giá khấu hao đề chuyền vào giá trị sản phẩm. Hệ quà là, mặc dù giá trị đã bị khấu hao, song tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không công trong sản xuất. Sự phục vụ không công ấy được lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với tăng quy mô tích luỹ tư bản. Đồng thời, sự lớn lên không ngừng của quỹ khấu hao trong khi chưa cần thiết phải đồi mới tư bản cố định cũng trở thành nguồn tài chính có thể sừ dụng cho mở rộng sản xuất.

Thứ tư, đại lượng tư bản ứng trước. Neu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được, tư bản ứng trước càng lớn sẽ là tiền đề cho tăng quy mô tích luỹ.

3. Một số hệ quả của tích luỹ tư bản

Theo Các, quá trình tích lũy trong nền kinh tế thị trường tư bản dẫn tới các hệ quá kinh tế mang tính quy luật như sau:

Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu tạo giả trị được quyết định bởi câu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đôi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

Các cho rằng, nền sản xuất có thề được quan sát qua hình thái hiện vật. Cũng có thề quan sát qua hình thái giá trị.

Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động được coi là cấu tạo kỹ thuậtĩ

Cấu tạo kỹ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị nó phản ánh ở mối quan hệ tỷ lệ giữa tư bản bất biến với tư bản khả biến. Tý lệ giá trị này được gọi là cấu tạo hữu cơ.

nhân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp công nhân làm thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê trong các điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.