Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933

1. Bối cảnh kinh tế năm 1929 đến 1933:

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất trong lúc những nước đồng minh và cả Châu Âu hứng chịu hậu quả của cuộc chiến thì Hoa Kỳ đã giàu lên một cách nhanh chóng. Kinh tế Hoa Kỳ bước sang giai đoạn thịnh vượng xuyên suốt những năm 20 của thế kỉ XX. Nguyên nhân là bởi:- Đất nước Hoa Kỳ cách xa chiến trường, được 2 đại dương lớn bao bọc nên chiến tranh không lan tới.- Hoa Kỳ lợi dụng chiến tranh để thu lời thông qua hoạt động mua bán vũ khí giữa cả 2 phe.- Giữa lúc các nước đang mải lo chiến tranh thì Hoa Kỳ tranh thủ sản xuất công nghiệp, tăng trưởng kinh tế.- Hoa Kỳ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tham gia chiến tranh muộn nhưng vẫn được hưởng lợi từ bên thắng trận.Cho mãi đến tận trước sự suy thoái 1929 – cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất nước Mỹ đã phải chịu đựng, nền công nghiệp xe hơi và xây dựng ở Hoa Kỳ đã tăng trưởng vượt bậc vào giai đoạn năm 1920 và với lợi nhuận ổn định do hai ngành kinh tế thịnh vượng này đem lại, tiền lương và sức mua của người dân Hoa Kỳ đã được cải thiện. Đến năm 1929, bảng cân đối kế toán tổng hợp của tất cả 25.000 ngân hàng Hoa Kỳ lên tới 60 tỷ USD. Các tài sản được nắm giữ nghiêm ngặt với tỷ lệ cho vay là 60%, và 15% được duy trì dưới hình thức đồng tiền mặt. Ngay cả 20% là cổ phiếu và trong thực tế, lượng cổ phiếu “siêu an toàn” được mua bởi Chính phủ là khoảng một nửa.

Tuy nhiên, vào tháng 9/1929, cuộc khủng hoảng kinh tế đã bắt đầu bùng phát ngay từ nước Mỹ. Do vậy, đây cũng là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất thời điểm đó với sức tàn phá khủng khiếp khiến nền kinh tế nước Mỹ kiệt quệ, công nhân thất nghiệp, hàng loạt cơ sở sản xuất phải đóng cửa. Lạm phát cao khiến người dân thất nghiệp, đói nghèo.

Nước Hoa Kỳ chạy đua ồ ạt sản xuất những mặt hàng nhưng không thể tiêu thụ, ế hàng tràn lan. Sản lượng công nghiệp bị giảm sút 50% do suy thoái với gang thép mất 75%, ô tô giảm 90%. Hàng loạt xí nghiệp bị phá sản, nông dân thất thu nghèo khổ.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng đến hầu hết các nước tư bản phát triển. Các nước như nước Anh, Pháp cũng bị tác động nặng nề. Pháp kéo dài khủng hoảng kinh tế từ năm 1930 – 1936 với công nghiệp giảm 30%, nông nghiệp 40%, thu nhập quốc dân giảm 30%.

Bên cạnh đó, ở nước Anh, sản lượng gang năm 1931 cũng giảm sút 50%, thép sụt gần 50%, thương nghiệp ảnh hưởng nặng nề. Nước Đức vào năm 1930 cũng bị tổn thất sản lượng công nghiệp rất nặng nề. Các nhà tư bản lựa chọn biện pháp thà đốt hàng hoá, phế liệu chứ không bán giá thấp chống lạm phát nhưng cũng không có hiệu quả. Tư bản đánh thuế quá cao nhằm bù đắp lạm phát càng khiến dân chúng khốn đốn.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 thực chất xuất phát từ lòng tham, độc ác của thực dân và phong kiến. Từ đó dẫn tới cảnh người dân khốn khổ, kiệt quệ rồi bắt buộc phải nổi dậy để giành giật lấy sự sống còn. Từ đó khiến cho mâu thuẫn trong nội bộ đất nước và giữa các dân tộc nổi lên, mở đầu cho cuộc chiến tranh thế giới mới.

2. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 đến 1933:

– Trước thời kỳ đại khủng hoảng: Đây được xem là thời kỳ phồn thịnh nhất của những nước tư bản. Bao gồm khối liên minh Châu Âu và Mỹ. Bởi những nước này có lượng thuộc địa khổng lồ, những mẫu quốc hưởng lợi nhờ khai thác khoáng sản và tiêu thụ hàng hoá. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ là quốc gia được hưởng lợi lớn nhất sau cuộc chiến. Khi rời xa chiến trường, bán vũ khí và hàng hoá cho 2 phe tham chiến. Nền kinh tế Hoa Kỳ được xem là anh cả thế giới thời hậu chiến khi phố Wall sụp đổ.

– Đại khủng hoảng 1929: Tháng 9/1929, toàn thế giới rúng động khi thị trường chứng khoán Hoa Kỳ đột ngột tụt dốc. Tất cả các nền kinh tế đều bị thiệt hại nặng nề. Sản lượng công nghiệp bị giảm sút 50% do đình trệ. Sản xuất thép giảm 75%, ô tô giảm 90%. Hàng loạt xí nghiệp lớn phá sản, nông dân thất thu nghèo khổ. Mâu thuẫn chủng tộc, giai cấp nghiêm trọng.

– Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 ở mĩ nhanh chóng lan ra những nước khác. Tại nước Anh, sản lượng thép giảm sút 50% vào năm 1931. Ngành công nghiệp nặng sụt giảm nghiêm trọng. Nước Đức vào năm 1930 cũng bị sụt giảm sản lượng công nghiệp một cách trầm trọng. Pháp kéo dài khủng hoảng từ năm 1930 – 1936, sụt giảm công nghiệp 30%. Và nông nghiệp giảm 40%, thu nhập quốc dân giảm 30%.

– Hậu quả: Hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 thực chất xuất phát từ sự tham lam vô độ của bọn đế quốc và phong kiến. Dẫn đến tình cảnh nhân dân cơ cực, đói khổ. Buộc họ phải đứng dậy để đòi lấy sự sống và quyền tự do. Đó cũng là tiền đề cho cuộc chiến thế giới mới bùng nổ.

– Chính sách phục hồi kinh tế của các nước: Nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, các nước đã đưa ra bộ chính sách để phục hồi nền kinh tế quốc gia. Nổi bật nhất là sự chia thuộc địa theo “chính sách mới của Hoa Kỳ”.

– Chính sách mới của Hoa Kỳ: Chính sách kinh tế mới gắn liền với vị tổng thống thứ 32 của Mỹ, Franklin Delano Roosevelt. Ông đã thực hiện những chính sách cải cách nông nghiệp, an sinh xã hội, công nghiệp, ngân hàng và tài chính giúp nước Hoa Kỳ tránh được sự suy thoái tồi tệ nhất.

– Tài chính, ngân hàng: Đóng cửa những ngân hàng quốc gia không có khả năng chi trả nợ. Cho phép lạm phát thấp nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá, giúp giảm bớt gánh nặng nợ nần. Thị trường chứng khoán được vận hành lại khi có sự trợ giúp của chính phủ liên bang.

– An sinh xã hội: Tập hợp người thất nghiệp và phân chia làm nhiều bộ phận nhằm thực hiện những chương trình phúc lợi. Từ đó giúp giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, hỗ trợ chi trả tiền lương và bảo hiểm thất nghiệp cho nông dân.

– Nông nghiệp: Cắt bớt sản lượng nông nghiệp trên thị trường cũng giúp giá nông sản đi lên. Và những nông dân tự nguyện giảm sản lượng sẽ được bồi thường bởi những Công ty Tín dụng Nông sản.

– Công, thương nghiệp: Thông qua Luật Quan hệ Lao động Quốc gia, Ban Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRB) được thiết lập nhằm giám sát những cuộc đàm phán tập thể. Giúp tổ chức các cuộc bỏ phiếu và đảm bảo rằng công nhân quyền chọn tổ chức đại diện cho họ trong cuộc đàm phán với giới chủ. Chính điều này giúp những người công nhân có được nhiều hơn nữa quyền “được làm việc”. Từ đó sản lượng tăng cao dần qua các năm 1935 – 1940.

3. Chiến lược phân chia thuộc địa:

Để tránh khỏi chiến tranh, những nước đế quốc đã tiến hành chia lại thuộc địa. Một số nước ít thuộc địa, phát hành chính sách Phát xít nhằm thôn tính thuộc địa của những nước khác. Đây được xem là cuộc chiến tàn ác nhất lịch sử thế giới để chia lại bản đồ trên thế giới. Thế chiến thứ II có sự tham dự của hơn 30 nước trên thế giới, gây ra cái chết của 85 triệu người dân trên thế giới.Chiến tranh thế giới thứ 2 đã bắt đầu khi phát xít Đức xâm chiếm Ba-lan. Và chấm dứt khi những phong trào chống phát xít diễn ra rất thành công. Chấm dứt cuộc chiến quân sự vĩ đại nhất thế giới, các nước trải qua chiến tranh lạnh.

4. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933:

Nguyên nhân chính dẫn đến sự suy thoái là vì sản xuất của chủ nghĩa tư bản tăng lên rất nhanh chóng trong thời kỳ phát triển còn nhu cầu và sức mua của người dân thì không tăng tương xứng, nên hàng hoá bị dư thừa dẫn tới suy giảm trong tiêu thụ. Cụ thể, khả năng sản xuất vượt xa khả năng tiêu dùng thực, một phần lớn thu nhập quốc dân lại chỉ thuộc về một thiểu số người. Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng, trong khi người lao động không được hưởng phần tương xứng, không có khả năng mua hàng hoá do chính họ sản xuất.Lý do thứ hai, chính sách thuế và những khoản trợ cấp của các chính phủ làm cho hàng hoá khó bán ra nước ngoài. Việc cung cấp tín dụng một cách dễ dãi cũng tạo ra tình trạng lạm dụng. Người ta mua cổ phiếu chỉ để đầu cơ, bán lại kiếm lời trong thời gian ngắn nào đó. Hậu quả là chính phủ và tư nhân cùng lâm vào cảnh đói nghèo. Ngoài ra, quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh làm giảm nhu cầu đối với thợ không lành nghề làm cho tình trạng nghèo đói gia tăng mạnh mẽ. Thất nghiệp gia tăng trong khi sức mua giảm, chính phủ không có chính sách phù hợp nhằm giải quyết tình trạng nợ nần do đó không giảm được tình trạng đói nghèo.

5. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929 – 1933:

Khủng hoảng tài chính kéo dài suốt nhiều năm ở khắp mọi nơi dẫn tới tình trạng vỡ nợ của rất nhiều quốc gia. Các nước tư bản nội bộ lục đục, dẫn đến mâu thuẫn giữa tầng lớp tư bản và nông dân, giữa tầng lớp lao động và địa chủ ngày càng gay gắt. Vì thế dẫn tới phong trào cách mạng, bọn tư bản đàn áp nhân dân ác liệt khiến cho những cuộc bạo động nổ ra liên miên.

Việt Nam tuy không phải nước tư bản nhưng cũng bị tác động tiêu cực do thực dân đẩy mạnh bóc lột nhân dân, đánh thuế, cướp bóc, chèn ép khiến tài chính của Việt Nam trở nên cạn kiệt. Pháp rút vốn đầu tư từ Đông Dương sang Pháp khiến sản xuất ở Việt Nam cũng trở nên ngưng trệ. Có thể nói, cuộc khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam như sau:

– Thực dân Pháp rút vốn từ Đông Dương sang Việt Nam, rồi sử dụng ngân sách Đông Dương để viện trợ cho tư bản Pháp đã khiến cho sản xuất ở Việt Nam trở nên trì trệ vì thiếu vốn.

– Lúa gạo trên thị trường thế giới mất giá cũng làm cho lúa gạo Việt Nam không thể xuất khẩu, từ đó dẫn đến việc ruộng đất bị bỏ phí.

– Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, số người có công ăn việc làm thì tiền lương bị cắt giảm khoảng 30% đến 50%

– Tiểu tư sản lâm vào hoàn cảnh khốn cùng: Nhà buôn nhỏ phá sản, viên chức bị sa thải, học sinh, sinh viên ra trường bị sa thải

– Một bộ phận lớn tư sản dân tộc bản địa lâm vào tính thế phá sản vì chẳng thể làm ăn thương mại và sản xuất.